Showing posts with label Suy niệm Lời Chúa. Show all posts
Showing posts with label Suy niệm Lời Chúa. Show all posts

Monday, October 06, 2014

“Cứ làm như vậy là sẽ được sống?” (6.10.2014 – Thứ hai, sau Chúa Nhật XXVII Thường Niên)

“Cứ làm như vậy là sẽ được sống?” (Lc 10, 25-37)
“Ai là người thân cận của tôi?”
Nếu câu hỏi thứ nhất của người luật sĩ là một câu hỏi rất hay: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”, thì câu hỏi thứ hai mà ông nêu ra: “Ai là người thân cận của tôi?”

Sunday, December 08, 2013

Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội - Ngày 8.12

Vô Nhiễm vì được Thiên Chúa đoái thương…

Niềm tin vào sự kiện Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội quả là quan trọng, nhưng nó không hề xa vời mà gần gũi với Ki-tô hữu chúng ta hơn bất kỳ sự kiện nào khác. Trong niềm tin của tôi, ‘vô nhiễm’ không còn phải là một luật trừ dành riêng cho Đức Ma-ri-a, mà là một định luật phổ quát áp dụng cho hết thảy mọi người, trong đó có cả tôi và bạn nữa. Mời bạn cùng tôi khám phá nguyên lý thâm sâu của đặc ân vĩ đại này.

2nd Sunday of Advent

Welcome one another, then, as Christ welcomed you. (Romans 15:7)
Jesus sure has a lot of patience, doesn’t he? Day in and day out, he puts up with our erratic behavior, especially the way we treat each other. We know that Jesus doesn’t like to see us manipulating or deceiving or hurting each other.

Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ngày 8/12

Lc 1, 26 – 38
Nói về Mẹ quả là một điều vô cùng hạnh phúc. Bởi vì, ai chẳng yêu thương Mẹ mình, ai chẳng muốn đền ơn báo hiếu Mẹ Cha. Mẹ Cha ở đời đã sinh ra chúng ta, đã ẵm bồng, dưỡng dục, nuôi nấng chúng ta. Cha Mẹ đã đổ biết bao mồ hôi nước mắt vì chúng ta. Công ơn ấy chúng ta đền đáp biết bao cho vừa, đến khi nào mới cân xứng ! Mẹ Cha trần thế còn như vậy, huống chi đối với Đức Mẹ, người Mẹ trên mọi người Mẹ thế trần. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ của Hội Thánh và là Mẹ của mỗi Kitô hữu chúng ta.

CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG - Năm A

Lời Chúa:  Mt 3, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".

Sunday, December 01, 2013

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA : Chúa nhật I mùa Vọng năm A

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi,

SỐNG TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG : Chúa nhật I Mùa Vọng Năm A


Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Một năm Phụng Vụ lại đến. Thời gian cứ thế trôi đều theo nhịp dường như chẳng có gì mới dưới trần gian này. Đông qua, xuân đến, hạ đi, thu lại về. Hết mùa thường niên, đoàn tín hữu Kitô bước vào mùa Vọng, mùa Giáng Sinh.

Hãy sẵn sàng : Chúa nhật 1 Mùa vọng năm A

Lời Chúa (Mt 24,37-44)

Ðức Giêsu nói với các môn đệ về ngày quang lâm của Người rằng: 37 “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu.

Friday, November 29, 2013

Mt 2,13-23: Sức mạnh trong yếu ớt, niềm vui trong nỗi đau



Cánh đồng Bê-lem ngày nay

Mt 2,13-23 (Bản dịch NPDCGKPV)
13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!"
14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.
15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
16 Bấy giờ vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh.
17 Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
18 "Ở Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.
19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập,
20 báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi."
21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.
22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê,
23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Chia sẻ
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Mt 2,13-23 trình bày hai đề tài chính:
1) Tương phản giữa sức mạnh và sự yếu ớt, giữa quyền lực của vua Hê-rô-đê và không chút quyền lực nào của Thánh Gia. Sự tương phản làm lộ ra cách Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại. Phải chăng Thiên Chúa bày tỏ sức mạnh của Người trong chính sự yếu ớt và không quyền hành?
2) Tương phản thứ hai xoay quanh “niềm vui” và “nỗi buồn”. Điều nghịch lý là thay vì Đấng Cứu Tinh xuất hiện đem lại niềm vui cho con người, thì lại dẫn đến đau thương và nước mắt. Làm thế nào để nối kết niềm vui Giáng Sinh với nỗi đau của những người mẹ mất con? (2,18) Đâu là niềm vui đích thực trong biến cố Con Thiên Chúa đến cứu loài người?
Xin chia sẻ hai ý tưởng nghịch lý: “Sức mạnh trong yếu ớt” và “niềm vui trong nỗi đau” để tìm hiểu cách Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử và niềm vui lớn lao nơi biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại.

I. SỨC MẠNH TRONG YẾU ỚT
Tin Mừng Mát-thêu 2,13-23 thoáng cho thấy cách Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử, qua tương phản mạnh mẽ giữa sức mạnh và yếu ớt, giữa quyền lực và không quyền lực.
Thánh Giu-se, Mẹ Ma-ri-a và Hài Nhi Giê-su nổi lên trong trình thuật với nét âm thầm, khó nghèo và không chút quyền lực nào. Cả ba nhân vật đều không lên tiếng trong trình thuật. Thánh Giu-se không nói nhưng mau mắn hành động để bảo vệ sự sống của gia đình. Đầu bài Tin Mừng, khi được báo mộng, thánh Giu-se “liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập” (2,14). Gần cuối bài Tin Mừng, khi được báo mộng, thánh Giu-se “liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en” (2,21). Cuối cùng, thánh Giu-se cũng được báo mộng để đưa Thánh Gia về Na-da-rét thay vì về Giu-đê (2,22).
Bài Tin Mừng thuật lại ba cuộc chạy trốn theo nghĩa rộng. Trình thuật mở đầu: “Khi các nhà chiêm tinh đã ra đi”. Trong mạch văn, đây là một cuộc chạy trốn, vì các nhà chiêm tinh đã thất hứa, không cho vua Hê-rô-đê biết chỗ ở của Hài Nhi, nên họ có nguy cơ bị truy đuổi. Cuộc chạy trốn thứ hai là đang đêm Thánh Gia phải trốn sang Ai Cập. Cuộc chạy trốn thứ ba theo nghĩa lánh nạn: Thay vì về Giu-đê thì lánh về Na-da-rét để thoát khỏi sự bách hại của vua Ác-khê-lao, người kế vị vua cha Hê-rô-đê.
Như thế, Thánh Gia ở trong hoàn cảnh mong manh, yếu ớt và khó nghèo. Khó nghèo vì sinh hạ con đầu lòng trong hang bò lừa giữa mùa đông giá rét. Yếu ớt vì mới sinh hạ đã phải chạy trốn trong đêm tối. Đường đi thì dài và nguy hiểm, nơi đến là đất khách quê người. Bản văn cho thấy đây là cuộc chạy trốn của một gia đình đơn độc, chỉ có ba người. Thế giới ngày nay vẫn xảy ra những cảnh chạy trốn, chạy chốn thiên tai, chạy chốn chiến tranh, chạy trốn bách hại…
Yếu tố thứ hai trong bản văn là vai trò quan trọng của sứ thần Chúa với hai lời tường thuật trực tiếp: Lời thứ nhất: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy” (2,13). Lời thứ hai: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi” (2,20). Lời báo mộng thứ ba thuật lại gián tiếp, cho biết nơi trở về là Ga-li-lê thay vì về Giu-đê.
Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, không có gì mong manh hơn giấc mơ, chỉ là giấc mơ, chỉ là báo mộng, qua đó cho biết ý định của Thiên Chúa, chứ không phải là bày tỏ uy quyền trong lịch sử. Trình thuật tạo nên tương phản mạnh mẽ giữa báo mộng với thực quyền sinh sát của Hê-rô-đê.
Yếu tố thứ ba trong bản văn là kiểu nói: “để ứng nghiệm lời đã phán”. Lời thứ nhất là “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”. Câu trích gợi lại biến cố dân Ít-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Biến cố Xuất Hành ngày xưa được áp dụng cho Hài Nhi Giê-su như thể báo trước vai trò Mê-si-a của Người. Lời trích thứ hai: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét” giải thích quê hương trần thế của Đức Giê-su (lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ phân tích trong mục II).
Qua lời trích, như thể các biến cố xảy ra đã được xếp đặt trước. Phải chăng sự bách hại của Hê-rô-đê đã được Thiên Chúa xếp đặt?
Bản văn trình bày hai chiều kích: Chiều kích lịch sử với sự bách hại của Hê-rô-đê và sự khó khăn, thiếu thốn của Thánh Gia. Chiều kích mặc khải là cách Thiên Chúa hành động trong hoàn cảnh cụ thể của lịch sử. Qua bài Tin Mừng có thể rút ra hai kết luận:
1) Những tai hoạ con người gây ra cho nhau không phải là do Thiên Chúa sắp đặt mà là do tội lỗi và tham vọng của con người. Một lời nói của một vị vua tham vọng có thể giết chết hàng trăm người vô tội. Điều Hê-rô-đê đã làm vẫn còn xảy ra đây đó ngày nay.
2) Đứng trước tham vọng của con người, chương trình cứu độ của Thiên Chúa vẫn được thực hiện trong sự mong manh, nhỏ bé, yếu ớt, không quyền hành, qua hình ảnh một Hài Nhi mới sinh, một gia đình không nhà cửa, không tiện nghi và đang chạy trốn. Sự yếu ớt còn thể hiện qua sự âm thầm, im lặng của Thánh Gia trong bản văn.
Tất cả những yếu ớt trên làm tỏ lộ ra sức mạnh của Thiên Chúa. Thực vậy, điều trớ trêu là một thế lực hùng mạnh như vua Hê-rô-đê cũng không làm gì được một trẻ thơ vừa mới sinh hạ. Thế lực bóng tối không tiêu diệt được ánh sáng. Có thể nói, không có gì, không có thế lực đen tối nào trong lịch sử có thể ngăn cản được chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đó là điều an ủi lớn lao cho người tin vào Đức Giê-su trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách như Thánh Gia.
Nhưng Tin Mừng không dừng lại ở đây. Trình thuật hôm nay chuẩn bị một nghịch lý lớn lao hơn. Hôm nay, Thánh Gia thoát khỏi sự bách hại của Hê-rô-đê, nhưng 33 năm sau, Đức Giê-su đã không bảo toàn được mạng sống của mình, Người đã bị bách hại và đã chết trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa vẫn không thua thế lực bóng tối. Thập giá là nơi chiến thắng thế lực của sự chết, Thập giá là nơi Đức Giê-su được tôn vinh, là lúc Người đi về với Cha và sống với các môn đệ mãi mãi.
Biến cố Thánh Gia xuất hành từ Ai Cập trở về đất Ít-ra-en là hình ảnh của một cuộc xuất hành khác: Đức Giê-su từ thế gian này đi về với Cha.
Tóm lại, sức mạnh của Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lộ trong sự yếu ớt, kể cả sự chết. Như thế, Thiên Chúa bày tỏ “sức mạnh” trong “không có sức mạnh”, bày tỏ “quyền hành” trong “không có quyền hành”. Ước gì chúng ta xác tín rằng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn tỏ lộ trong những khó khăn và thách đố thường ngày của chúng ta. Xin cho chúng ta tin tưởng, phó thác và mau mắn hành động như thánh Giu-se dưới sự hướng dẫn của sứ thần Chúa.
II. NIỀM VUI TRONG NỖI ĐAU
Biến cố Giáng Sinh là niềm vui lớn lao cho toàn thể nhân loại. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa bước qua một giai đoạn quyết định. Con Thiên Chúa nhập thể mang đến cho loài người sự sống đích thực. Nhưng khởi đầu của niềm vui cũng là khởi đầu của những nỗi đau mất mát và chết chóc. Câu hỏi đặt ra: Niềm vui ở đâu? Phải hiểu niềm vui Giáng Sinh như thế nào trong những nỗi đau mà nguyên nhân là Đấng Cứu Tinh đã ra đời?
Cơn giận của Hê-rô-đê bị các nhà chiêm tinh lừa dẫn đến chuyện “giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” (2,16). Cơn giận của một kẻ có quyền lực thật khủng khiếp.
Nhưng đâu là ý nghĩa của trình thuật. Về lịch sử, phải khởi đi từ cuối Tin Mừng, biến cố lịch sử có thật là biến cố Thương Khó, kế đến là các trình thuật về cuộc đời công khai của Đức Giê-su. Các tác giả sách Tin Mừng đã thu thập tài liệu và truyền thống, sau đó sắp xếp lại để xây dựng thần học riêng của mỗi sách Tin Mừng. Thời thơ ấu của Đức Giê-su ít tính lịch sử hơn cả, nhưng lại đậm nét thần học. Chỉ có Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Lu-ca có trình thuật thời thơ ấu, nhưng mỗi Tin Mừng lại có những đặc điểm riêng. Điểm nhấn thần học của trình thuật thời thơ ấu khẳng định: Đấng Cứu Tinh xuất hiện là ứng nghiệm lời Kinh Thánh, là một phần trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa trải dài trong lịch sử dân Ít-ra-en.
Chẳng hạn, chuyện Hê-rô-đê sát hại các con trẻ ở Bê-lem và vùng lân cận là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Ở Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2,18 // Gr 13,15).
Trong sách Giê-rê-mi-a đây là lời tiên báo thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy năm 587 TCN. Ra-ma là một làng ở phía Bắc Giê-ru-sa-lem, gần Ramala ngày nay. Thời Giê-rê-mi-a, Ra-ma là nơi tập trung dân Giu-đa để bị đưa đi lưu đày ở Ba-by-lon. Tại Ra-ma, bà Ra-khen là một trong hai người mẹ của con cái Ít-ra-en đã khóc thương con cái Ít-ra-en bị đưa đi lưu đày không trở về nữa.
Mát-thêu nối kết tiếng khóc của bà Ra-khen với Bê-lem bởi vì theo St 35,19-20: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem. Ông Gia-cóp dựng một bia đá trên mộ bà, đó là bia mộ bà Ra-khen, vẫn còn cho đến ngày nay.”
Trong bối cảnh cộng đoàn Tin Mừng Mát-thêu vào cuối thế kỷ I, những dữ liệu trên cho phép hiểu trình thuật các trẻ Bê-lem bị giết gợi lại biến cố Đền Thờ bị phá huỷ năm 70. Một biến cố lịch sử ảnh hưởng sâu đậm tâm thức dân Do Thái, đặc biệt Tin Mừng Mát-thêu được viết cho cộng đoàn tín hữu xuất thân từ Do Thái giáo.
Đền Thờ bị phá huỷ, bị đốt cháy, không chỉ trẻ thơ mà nhiều người Do Thái đã chết để bảo vệ thành Thánh. Đây là một biến cố làm đảo lộn không chỉ một số làng ở Bê-lem mà cả một dân tộc. Từ đó họ phải sống lưu vong trong hai mươi thế kỷ; và ngày nay vẫn còn nhiều khó khăn để có một quê hương yên bình.
Đối với độc giả, câu hỏi đặt ra: Tại sao Đấng Cứu Tinh xuất hiện lại dẫn đến cái chết của những trẻ thơ vô tội. Chúa ở đâu khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi? Đâu là niềm vui, khi chỉ thấy chết chóc, khóc than và nước mắt?
Thiết nghĩ, gương các thánh tử đạo cho chúng ta câu trả lời. Sự sống Thiên Chúa ban quý trọng hơn sự sống thể lý. Ai tin vào Đức Giê-su thì có niềm vui và bình an của Người ngay giữa lúc khó khăn thử thách. Đó là niềm vui không ai lấy mất được. Vì niềm vui và sự sống đích thực được ban tặng, mà các thánh tử đạo đã dám hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho niềm vui lớn lao đó. Có thể nói, các ngài đã chấp nhận chết để sống.
Ước gì chúng ta nhận ra niềm vui sâu xa mà Thiên Chúa đã ban tặng cho loài người để từ đó vượt qua mọi khó khăn thách đố trong hiện tại.
Ước gì chúng ta nhận ra cách Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử để từ đó xác tín và đón nhận sự can thiệp của Người trong cuộc đời mình./.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

Tuesday, November 26, 2013

Chúa Nhật XIX TN A : CÓ DỪNG CHÂN NHƯNG KHÔNG ĐỨNG LẠI


           Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin là một quá trình bước đi không ngừng, tiến mãi về phía trước để gặp Đấng vô hình. Thỉnh thoảng có dừng chân nhưng không bao giờ đứng lại.
Sau khi hỉ hoan về phép lạ cả thể mà Thầy đã thực thi cho gần vạn người no nê, các tông đồ lại phải chưng hửng lần nữa vì lệnh của Thầy: Hãy lên đường! Hãy xuống thuyền mà qua bờ bên kia! Cám dỗ dừng chân đứng lại và nghỉ ngơi trên thành công, trên chiến thắng vẫn luôn có đó với phận người. Sau khi khánh thành một công trình hoành tráng, sau khi hoàn thành một cuộc lễ hay một cuộc tổ chức lớn bé, thì dừng chân, ngồi lại để lượng giá, kiểm thảo để rút kinh nghiệm là điều cần thiết, nhưng để đứng lại chiêm ngắm vinh quang là một cám dỗ triền miên và thật khó lường hậu quả. Ròng rã hơn mười mấy năm trong vai trò thầy giúp xứ cũng như hơn mười mấy năm đời linh mục, bản thân nghiệm thấy chính mình và các đấng khi xây dựng một công trình nào đó thì chuyện hay đi lui đi tới ngắm nghía công trình là chuyện như cơm bữa. Ai lại không thích ngắm nghía vinh quang của mình. Ai lại không thích nghe người ta trầm trồ về cái gọi là thành công của mình. Hễ có khách đến thăm thì phải tìm dịp giới thiệu cho được những gì mình đã “ra tay”.
Các tông đồ năm xưa chẳng hơn gì chúng ta hôm nay. Dù chỉ là những người giúp phân phát bánh – cá, nhưng các ngài làm như chính tay mình thực thi kỳ công “phép lạ hóa bánh”. Theo Tin mừng thánh Gioan thì việc người dân muốn tôn Chúa Giêsu làm vua có thể là do dân chúng tự phát nhưng rất có thể là do sự gợi ý có chủ đích của nhóm mười hai vị rất tham “ngồi bên hữu, bên tả Thầy trong vinh quang” (x.Mc 10,35-40). Đêm đã về. Dân chúng đã no nê. Chúng mình cũng đáng được hả hê nghe bao lời chúc tụng chứ. Chuyện bất ngờ đã đến, dù không ai thích thú chút nào. Thầy ra lệnh tất cả xuống thuyền ngay. Còn Người thì giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình.
Bỏ vinh quang, bỏ thành công rực rỡ để ra đi là một điều không dễ chút nào. Cảnh đời phía trước mịt mùng khó tiên liệu và sóng gió ba đào là chuyện dường như khó tránh. Các tông đồ hôm ấy đã phải đương đầu với hiện thực ấy. Sóng thì to, gió thì lớn. Thuyền đang chơi vơi nghiêng ngã. Lòng các ngài cũng ngã nghiêng theo gờ cạnh con thuyền. Tâm trạng của tiên tri Êlia năm nào cũng không khác gì. Sau chiến tích oanh liệt hạ gục những 450 sư sãi thần Baal, Êlia đã phải trốn chạy khỏi sự truy đuổi, tìm diệt của hoàng hậu Giêdabel. Sau vinh quang thì tai họa liền kề.
“Ra đi là chết trong lòng một ít”. Chẳng có sự dứt bỏ nào mà chẳng có xót xa hay đau đớn, nhất là phải từ bỏ những thành công huy hoàng hay những hạnh phúc êm ả, cho dù chúng là hữu hạn của đời thường. Hạnh phúc đích thực vẫn ở phía trước. Đó là Thiên Chúa, Đấng không chỉ chờ đợi mà đang tiến tới để đón gặp chúng ta.
Tin là bước đi, là ra đi, tiến về phía trước, về nơi chưa hề biết như Abraham ngày nào. Bỏ quê hương, xứ sở, bỏ cả gia tộc thân yêu để lên đường. Xót dạ khi ra đi và bâng khuâng khi tiến về phía trước. Nào là sóng gió cuộc đời, nào là phong ba tình người, tất thảy như đang chờ đợi để dập vùi, đánh đắm con thuyền đời ta. Một Phaolô hết lòng hết dạ với người đồng hương Do Thái, ngài đã khẳng định: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và lìa xa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,3). Hiểu cho đúng thì Phaolô không quay lưng với tôn giáo tổ tiên mà tiến lên một tầm cao mới trong hành trình đức tin khi đã được diện kiến Đức Kitô phục sinh, Đấng Thiên Sai mà tổ tiên ông hằng mong đợi, thế mà ngài vẫn mãi bị người đồng hương xem là phản đạo, bội giáo, bỏ đạo để rồi luôn tìm cách bắt giết. Một khi đã ra đi, tiến về phía trước thì cái giá cần trả không chỉ là gian nguy, khốn khó mà cả sự lo âu, phiền muộn. Ngài thú nhận: “Thưa anh em, có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật. tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đổi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2).
Với Êlia, với Phaolô hay với các tông đồ khi ở trên thuyền chòng chành giữa biển đầy sóng gió, Thiên Chúa không bao giờ để các ngài cô đơn một mình. Người hằng ở với họ. Người luôn đồng hành với họ. “Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor 12,9). “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Gio 14,18). Dù giữa biển khơi hay giữa đêm tối của cuộc đời, Đấng làm người mãi ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20). Chỉ một điều là hãy nhắm đích và tiến thẳng trong niềm tin.
Thỉnh thoảng cũng nên biết dừng chân để tự kiểm để định hướng hay chỉnh hướng, nhưng không được phép đứng lại. Đứng lại là một trong những thái độ tự hài lòng về thành công của chính mình. Từ chỗ hài lòng đến chỗ tự cao tự đại là một khoảng cách không mấy xa. Và hậu quả của sự tự kiêu, tự mãn như đã nhãn tiền. Chưa tính đến chuyện Chúa hạ kẻ tự kiêu và nâng cao người phận nhỏ (x.Lc 1,52), thì chính kẻ cao ngạo, họ đã tự đặt mình vào vị thế cheo leo và sẽ ngã chìm không biết lúc nào như Phêrô trong lần được Thầy ban cho cái ơn đi trên mặt biển (x.Mt 14,22-33).
Đứng lại cũng là một hành vi tỏ dấu sự nghi ngờ. Khi thiếu niềm tin hay khi lòng tin yếu kém thì ta rất dễ bị cám dỗ dừng lại, không can đảm tiến lên. Những cái sợ như sợ khó, ngại khổ, sợ thất bại…nhiều khi nhấn chìm chúng ta trong các trở ngại khách quan vốn dĩ không thể tránh của kiếp người.
Không ai là không một lần gặp chông gai, sóng gió. Không ai là không đã từng nhiều lần ngã quỵ vì gian truân, khốn khó. Chuyện ngã, chuyện té là chuyện bình thường của phận người. Điều quan trọng là biết chỗi dậy và tiến lên. Trong niềm tin vào tình yêu của Đấng đã tự nguyện làm bạn đời của ta là Đức Giêsu, ước gì chúng ta được như thánh tông đồ dân ngoại là “quên đi những gì phía sau để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Monday, November 25, 2013

Chúa Nhật XXIII TN A : TA SẼ ĐÒI NGƯƠI ĐỀN NỢ MÁU NÓ

Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng Mt 18,15-20 với những lời căn dặn của Đấng Cứu Thế về việc sửa bảo anh em, chúng ta dễ liên tưởng đến việc cần có thái độ tế nhị tôn trọng anh em trong khi sửa bảo nhau. Điều này thì không ai chối cãi. Yêu thương và tôn trọng là hai động thái tất yếu phải đi sóng đôi. Tuy nhiên, qua những lời dạy của Thầy Chí Thánh, chúng ta còn phải lưu ý đến tính triệt để của việc sửa sai, dạy bảo nhau. Nghĩa là khi thấy anh em, thấy tha nhân sai lỗi thì cần phải tích cực sửa bảo nhau cách triệt để, tức là cho đến cùng.

Số phận của tha nhân cũng là số phận của chính ta:
Ngôn sứ Êdêkiel đã minh nhiên lời dạy của Thiên Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta nói cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, thì Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8). Không ai được phép vào Nước Trời một mình. Thiên Chúa không phải là Cha của mình tôi. Người là Cha của “chúng ta”, của mọi người (x.Kinh Lạy Cha). Thái độ dửng dưng, kiểu sống mặc kệ nó, là kiểu sống, là thái độ không xứng với người con cái Chúa.
Người ta có thể không ghét bỏ tha nhân, không tìm cách mưu hại tha nhân, thế nhưng chính khi không màng đến số phận của tha nhân cũng là khi ta góp phần hãm hại tha nhân cách gián tiếp. Đã nhiều lần Chúa Kitô nhấn mạnh chân lý này khi Người trách cứ tấm lòng dửng dưng của những luật sĩ biệt phái trước bao nổi khổ của đồng loại. Thấy anh em đang sai lỗi cũng như thấy anh em đang đứng bên bờ vực thẳm mà ta không lên tiếng cảnh báo hay sửa sai thì chính ta đã vô tình, đúng hơn là đã vô tâm để người anh em rơi xuống vực. Không cứu người theo khả năng và hoàn cảnh của mình là đã giết người. Dưới cái nhìn này chúng ta mới hiểu những lời đanh thép của Thiên Chúa qua miệng Ngôn sứ Êdêkiel ở trên: “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”.
Khi vạch rõ lộ trình sửa bảo anh em, bắt đầu từ hình thức cá nhân đến cộng đoàn, thì ngoài việc tôn trọng phẩm giá, danh dự người có lỗi, Chúa Kitô đã minh nhiên dạy ta tích cực sửa bảo người anh em cho đến cùng. Khi người anh em lỗi phạm không nghe cộng đoàn thì hãy xem họ như người ngoại giáo hay người thu thuế thì vẫn không là buông xuôi mà là trao phó cho Chúa, Đấng không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26). Ngay cả khi trao phó người anh em lỗi phạm cho Chúa thì ta vẫn còn đó bổn phận góp phần bằng lời cầu nguyện. Để làm rõ hiệu quả của lời cầu, thì liền sau đó Chúa Kitô đã khẳng định: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
Chúng ta cần phân biệt các hành vi sai trái mang tính cá nhân và hậu quả của hành vi lỗi phạm thì hạn chế với những sai lầm mang tính tập thể và hậu quả di hại cho xã hội là rộng lớn hoặc hành vi lỗi phạm của cá nhân trở thành gương xấu gương mù cho xã hội, cho những kẻ bé mọn. Cung cách hành xử của Chúa Kitô thật rõ ràng. Nguời từ tâm, nhân hậu với những trường hợp đầu mà trái lại rất thẳng thắn và cương quyết với những trường hợp sau. Người tỏ lòng nhân hậu với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người thật khoan dung với sự yếu hèn của Phêrô khi chối Người, nhưng Người lại nghiêm khắc trước sự sai trái cũng của chính Phêrô khi ông ngăn cản Người lên Giêrusalem để thực thi công trình cứu độ bằng sự khổ nạn. Và với nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo hay các bậc vị vọng thời bấy giờ là Biệt Phái, Luật sĩ…thì thái độ của Chúa Kitô là rất thẳng thừng và cương quyết. Tuy nhiên dù cương quyết hay nhân hậu, dù nghiêm khắc hay dịu dàng thì các hành vi của Chúa Kitô đều ắp đầy lòng xót thương. Đến trần gian, một sứ mạng của Đức Kitô là mạc khải cho nhân trần chân dung của Thiên Chúa, Đấng từ bi và hay thương xót, Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất.
Đức ái là động lực, là hình thức và là mục đích của việc sửa sai nhau:
Chúng ta dễ dàng chân nhận sự cần thiết của việc sửa bảo nhau. Tuy nhiên cần biết sửa bảo nhau vì yêu thương nhau, muốn cho nhau đổi thay và nên tốt lành, thánh thiện hơn, bằng những hình thức, những phương thế chính đáng và phải đạo. Làm sao minh chứng được động cơ và mục đích của việc ta sửa bảo nhau là vì yêu thương nhau? Quả là khó khi thẩm định những gì thuộc chiều sâu của tâm hồn. Với lời mạc khải, qua tấm gương của các ngôn sứ, đặc biệt của Chúa Kitô chúng ta có thể xác định rằng đức ái chính là động cơ và mục đích của việc sửa bảo nhau dựa vào một vài dấu chỉ sau:
- Có nhổ thì có trồng; có phá thì có xây: Ta không chỉ nói lên cái sai trái, sự lầm lỗi của nhau mà ta còn vạch ra cách thế sửa đổi, còn đề xuất phương hướng khắc phục cho nhau.
- Sẵn sàng đón nhận những sự hiểu lầm, những nghịch cảnh và cả những ngược đãi khi ta chân thành sửa bảo nhau bằng lòng khoan dung, tha thứ.
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu” (Rm 13,8). Đã mắc nợ là phải trả. Một trong những món nợ tình yêu chúng ta cần phải trả liên lĩ đó là món nợ liên đới trong lỗi phạm của nhau. Để trả món nợ này, chúng ta không chỉ can đảm đón nhận các hậu quả do tội lỗi của nhau mà còn phải tích cực sửa bảo nhau trong đức ái. Nếu ngươi không sửa bảo kẻ có tội thì “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” là một lời cảnh báo thật đáng sợ. Tuy nhiên để cho việc sửa bảo nhau đạt kết quả thì chúng ta đừng quên rằng ngoài việc cầu xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ, thì bản thân chúng ta trước hết cần làm thanh sạch bản thân mình một cách nào đó. Vì khi đã lấy cái xà ra khỏi mắt mình thì mình mới thấy rõ và biết cách lấy cái rác ra khỏi mắt anh em (x.Mt 7,1-5). Xin đừng viện cớ rằng tôi chưa hoàn thiện, nghĩa là vẫn còn vương nhiều lầm lỗi, nên tôi không được phép sửa bảo ai. Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta thảy đều là tội nhân, mức này, mức kia. Hãy nhớ lời dạy của thánh Giacôbê : “Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.”(Gc 5,19-20)

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột