Lúc
11 giờ rưỡi sáng thứ ba 26-11-2013 tại Phòng báo chí Tòa Thánh đã có buổi họp
báo giới thiệu Tông huấn ”Evangelii Gaudium - Niềm Vui Phúc Âm” của Đức Thánh
Cha Phanxicô. Chủ tọa cuộc họp báo có Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Chủ
tịch Hội Đồng Tòa Thánh thăng tiến việc tái truyền giảng Tin Mừng, Đức Tổng
Giám Mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, và
Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền
Thông Xã Hội.
Tông
huấn của Đức Thánh Cha khai triển đề tài loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày
nay bắt đầu với câu: ”Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập con tim và toàn cuộc sống
của những người gặp gỡ Đức Giêsu”. Tông huấn là kết quả các đóng góp của các
Nghị Phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về việc tái truyền giảng Tin Mừng
diễn ra tại Vaticăng trong các ngày từ mùng 7 tới 28 tháng 10 năm 2012. Vào
cuối thánh lễ kết thúc Năm Đức Tin sáng Chúa Nhật vừa qua Đức Thánh Cha đã trao
CD Tông Huấn cho 38 người thuộc 18 quốc gia đại diện cho mọi thành phần dân
Chúa năm châu.
Tông
thư của Đức Thánh Cha nêu bật năm điểm sau đây: thứ nhất là việc tái truyền
giảng Tin Mừng với niềm vui; thứ hai, canh tân óc sáng tạo trong việc loan báo
Tin Mừng; thứ ba, Giáo Hội phải là một Giáo Hội rộng mở, tiếp đón và thương
xót; thứ bốn Giáo Hội phải đối thoại và vặp gỡ; và thứ năm Giáo Hội phải là
tiếng nói ngôn sứ.
Ngỏ
lời với các nhà báo Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng
Tòa Thánh về Truyền Thông Xã Hội, nêu bật một số điểm của Tông Huấn liên quan
tới truyền thông. Trước hết tài liệu có giọng văn nói chuyện, với ngôn từ thanh
thản và thân tình, như mọi người đã nhận thấy trong các tháng qua trong triều
đại của Đức Thánh Cha Phanxicô. Thứ hai là vai trò của truyền thông trong công
tác tái truyền giảng Tin Mừng. Đức Thánh Cha muốn chỉ cho thấy con đường của
Giáo Hội trong các năm tới. Ngài rất ý thức được những gì đang xảy ra trên thế
giới trong các lãnh vực sức khỏe, giáo dục và truyền thông, các tiến bộ, thành
công và các kỹ thuật tân tiến (s. 52).
Thật
thế, thế giới ngày nay tràn ngập các thông tin thuộc đủ loại có ảnh hưởng trên
các vấn đề luân lý, vì thế cần phải giáo dục suy tư với óc phê bình giúp trưởng
thành trong các giá trị (s. 64). Các cơ may truyền thông lớn hơn này cũng phải
trở thành các khả thể gặp gỡ giữa tất cả mọi người với nhau. Vì thế cần khám
phá ra và thông truyền sự thần bí vủa việc chung sống, hòa trộn với nhau và gặp
gỡ nhau (s. 87). Đức Thánh Cha ý thức rằng các nền văn hóa mới và các dữ kiện
địa lý cống hiến cho kitô hữu các định hướng mới cho cuộc sống, thường khi trái
nghịch với Tin Mừng của Chúa Giêsu (s. 73). Nền văn hóa truyền thông và vài môi
trường trí thức đôi khi thông truyền một sự mất tin tưởng và một loại vỡ mộng
nào đó đối với sứ điệp của Giáo Hội (s. 79).
Nói
tiếp trong cuộc họp báo Đức Tổng Giám Mục Celli cho biết Đức Thánh Cha dành một
phần rộng rãi cho kiểu thông truyền sứ điệp Tin Mừng. Việc thông tin nhanh
chóng ngày nay đôi khi khiến cho các phương tiện truyền thông tuyển lựa các nội
dung khác nhau theo sở thích và quan điểm riêng. Do đó có nguy cơ khiến cho sứ
điệp què quặt và bị giảm thiểu vào những khía cạnh phụ thuộc. Và vài vấn đề
trong giáo huấn luân lý của Giáo Hội bị đặt ngoài bối cảnh trao ban ý nghĩa cho
chúng, hay bị đồng hóa với các khía cạnh phụ thuộc không diễn tả trọng tâm đích
thật sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô. Vì thế Đức Thánh Cha nhấn mạnh việc loan báo
phải tập trung nơi điểm nòng cốt, liên quan tới những gì là hay đẹp hơn, lớn
lao hơn, hấp dẫn hơn, đồng thời cũng cần thiết hơn của Tin Mừng (s. 34).
Đức
Thánh Cha cũng dành nhiều chỗ cho đề tài ngôn ngữ của việc loan báo Tin Mừng,
là một thách đố lớn đối với Giáo Hội ngày nay. Sự thật là chúng ta sẽ không bao
giờ có thể khiến cho các giáo huấn của Giáo Hội trở thành cái gì đễ hiểu và
được mọi người ưa chuộng. Đức tin luôn duy trì một khía cạnh của thập giá, một
cái gì mờ tối, nhưng không lấy đi sự cương quyết gắn bó với nó” (s. 42). Nhưng
cần phải liên tục chú ý tìm diễn tả các sự thật ngàn đời trong một ngôn ngữ cho
phép nhận ra sự mới mẻ thường hằng của nó (s. 41).... Ngoài ra cần có con tim
truyền giáo, luôn luôn rộng mở, không khép kín trong các chắc chắn của mình hay
lựa chọn thái độ tự vệ cứng nhắc (s. 45). Đức Thánh Cha cũng chú ý tới bài
giảng, phải biết nói gì, ra sao và khai triển cụ thể thế nào. Ngài khuyến khích
việc dùng các hình ảnh trong bài giảng, làm thế nào để nó chứa dựng ”một ý tưởng,
một tâm tình và một hình ảnh.” Và phải dùng một thứ ngôn ngữ đơn sơ, rõ ràng,
tích cực và dễ hiểu đối với người nghe, để thông truyền các chân lý của Chúa và
đến với con tim của họ (s. 158). Cần can đảm tìm ra các dấu chỉ mới, các biểu
tượng mới, một thịt xác mới, các hình thức khác nhau của vẻ đẹp trong các môi
trường văn hóa khác nhau để thông truyền Lời Chúa (s. 167).
Trong
bài giới thiệu của mình Đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, nêu bật rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử
dụng các đề nghị của các Nghị Phụ, nhưng soạn thảo chúng một cách cá nhân. Ngài
nhấn mạnh niềm vui của Tin Mừng và lập lại từ này đến 59 lần, và trích các đề
nghị của các Nghị Phụ 27 lần. Tông huấn được khai triển trong khung giáo thuyết
với các trích dẫn kinh thánh, huấn quyền và các giáo phụ, chẳng hạn như thánh
Ireneo, thánh Ambrogio và thánh Agostino, cũng như các thần học gia thời Trung
Cổ như chân phước Isacco della Stella, thánh Toma Aguino, Toma thành Kempis.
Trong số các thần học gia tân thời có chân phước John Henry Newman, Henri de
Lubac, Romano Guardini và các văn hào khác, trong đó có George Bernanos.
Tông
huấn cũng quy chiếu các Tông huấn như: Evangelii nuntiandi của Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI; các Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục như Christifideles laici;
Familiaris consortio; Pastores dabo vobis; Ecclesia in Africa, in Asia, in
Oceania, in America, in Medio Oriente, in Europa; Verbum Domini. Thêm vào đó
cũng có các tài liệu của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh như các tài liệu
Puebla và Aparecida, cũng như tài liệu của khóa họp thứ XVI của các Thượng Phụ
công giáo Trung Đông và các Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pháp, Brasil,
Philipines và Congo.
Tiếp
đến Đức Cha Baldisseri nhấn mạnh vài đề tài trong Tông huấn. Chẳng hạn như đề
tài ”tính cách thượng hội đồng giám mục”. Trong viễn tượng Giáo Hội ra khỏi
chính mình và tiến tới với người anh em (s.179) Đức Thánh Cha đề nghị một ”mục
vụ hoán cải” 360 độ, khởi đầu từ giáo xứ (s. 28), các cộng đoàn cơ bản, các
phong trào và hiệp hội (s. 29), các Giáo Hội địa phương (s. 30) cho tới chức
giáo hoàng (s. 32), đặc biệt là thực thi một cách giám mục đoàn quyền tối
thượng của Phêrô. Vì thế cả chức giáo hoàng và các cơ cấu trung ương của Giáo
Hội hoàn vũ cũng cần lắng nghe lời kêu gọi hoán cải mục vụ (s. 12).
Đề
cập tới Công Đồng Chung Vaticăng II, tương tự như các Giáo Hội Thượng Phụ Cổ
xưa, Đức Thánh Cha cầu mong các Hội Đồng Giám Mục có thể phát triển phần đóng
góp đa diện và phong phú để tình mến giám mục đoàn tìm ra các áp dụng cụ thể
(LG 22; EG 32).
Trên
bình diện đại kết, nhờ sự hiện diện tại Thượng Hôi Đồng Giám Mục của Đức Thượng
Phụ Costantinopoli và của Đức Tổng Giám Mục Canterbury (s. 245) tính cách
thượng hội đồng giám mục được diễn tả trong cách thế đặc biệt, bởi vì qua sự
đối thoại với các anh em chính thống, tín hữu công giáo có khả thể học được cái
gì hơn liên quan tới ý nghĩa của tinh thần giám mục đoàn và liên quan tới kinh
nghiệm của tính cách thượng hội đồng giám mục (s. 246).
Tiếp
tục bài giới thiệu Tông huấn Đức Tổng Giám Mục Baldisseri nói có một yếu tố ý
nghĩa khác: đó là sự kiện Tông huấn là tài liệu có tính cách đại đồng, nhưng
tiếp nhận các kích thích mục vụ đến từ các Giáo Hội địa phương khác nhau trên
thế giới. Điều này cho thấy tính cách Giám mục đoàn được thực thi. Trong chiều
hướng này Đức Thánh Cha khích lệ Giáo Hội ra đi truyền giáo tại những vùng
ngoại biên, qua việc hoán cải mục vụ. Ngài dựa trên kinh nghiệm mục vụ đã có
tại tổng giáo phận Buenos aires, và việc soạn thảo tài liệu Aparecida của Liên
Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh (s. 25). Đức Thánh Cha đã dành một phần rộng
rãi để nói về lòng đạo đức bình dân, mà bên chậu Mỹ Latinh và vùng quần đảo
Caraibi các Giám Mục gọi là ”nền tu đức bình dân” hay ”nền thần bí bình dân”.
Đây là môt ”nền tu đức đích thật nhập thể trong nền văn hóa của những người đơn
sơ” (s. 124).
Lấy
hứng từ định nghĩa của thánh Toma Aquino, theo đó ”Ơn thánh giả thiết bản chất
tự nhiên”, và dựa trên tài liệu Puebla, Đức Thánh Cha sáng chế ra câu nói: ”Ơn
thánh giả thiết nền văn hóa, và ơn của Thiên Chúa nhập thể vào nền văn hóa của
người tiếp nhận nó” (s. 115). Việc đánh giá cao các nền văn hóa khác nhau sẵn
sàng đón nhận Tin Mừng và thông tin nó với các phong phú của chúng, dẫn đưa Đức
Thánh Cha tới chỗ tái lượng định yêu sách tuyệt đối của một nền văn hóa. Vì thế
không nhất thiết phải áp đặt một hình thức văn hóa xác định, cùng với đề nghị
tin mừng, cho dù nó có xinh đẹp và cổ xưa tới đâu đi nữa (s. 117). Liên quan
tới việc này, các Giám Mục Đại dương châu đã xin rằng tại đây Giáo Hội ”phát
triển một sự hiểu biết và giới thiệu sự thật của Chúa Kitô, khởi hành từ các
truyền thống và các nền văn hóa của vùng này” (s. 118).
Liên
quan tới việc đối thoại giữa các tôn giáo được đặt để trong thái độ cởi mở
trong sự thật và tình yêu thương, Đức Thánh Cha trình bầy nó trước hết như là
một sự hoán cải trong cuộc sống con người, hay một cách đơn sơ, như các Giám
Mục Ấn Độ đề nghị ”một thái độ rộng mở đối với họ, chia sẻ các vui buồn khổ đau
của họ” (s. 250). Đối với Hồi giáo ”cần có sư đào tạo thích hợp của các người
đối thoại, để họ không chỉ có khả năng nhận biết các giá trị của người khác, mà
cũng hiểu biết các lo âu nằm bên dưới các đòi hỏi của họ, và đem ra ánh sáng
các xác tín chung... Trước các vụ do khuynh hướng cực đoan bạo lực gây ra khiến
cho chúng ta lo lắng, lòng thương mến đối với các tín hữu đích thật của Hồi
giáo phải dẫn đưa chúng ta tới chỗ tránh việc tổng quát hóa, vì như các Thượng
phụ công giáo vùng Trung Đông dậy, ”chúng ta biết rằng Hồi giáo đích thật và
kinh Coran vô tội đối với mọi bạo lực” (s. 253).
Tiếp
đến còn có chiều kích xã hội của việc tái truyền giảng Tin Mừng khiến cho Giáo
Hội chú ý tới những người nghèo, những người bị khai trừ, những người bị áp bức
(s. 176). Cần phải hội nhập họ vào xã hội. Giáo Hội phải lắng nghe tiếng gào
thét đòi công lý và phẩm giá của họ (s. 186). Cần phải chú ý tới các lý do gây
ra thảm cảnh này, và phải thay đổi các cơ cấu thối nát, nặng nề và vô hiệu (s.
189). Ngoài ra cũng cần phải lắng nghe tiếng kêu của nhiều dân tộc đòi quyền
của họ được có các quốc gia.
Sau
cùng là tương quan giữa công ích và nền hòa bình. Việc loan báo hòa bình không
phải là loan báo một nền hòa bình được thương thuyết, nhưng là xác tín rằng sự
hiệp nhất của Thần Khí làm hài hòa tất cả mọi khác biệt (230), bởi vì Thần Khí
chính là sự hài hòa.
Linh
Tiến Khải