"... Miễn là Đức Kytô được rao giảng ...".(Pl 1.18)
Mục Lục
Chương mở đầu :
NHỮNG ĐÒI HỎI QUAN YẾU NƠI GIÁO LÝ VIÊN
Chương một :
TIẾN TRÌNH CĂN BẢN CỦA MỘT BÀI GIÁO LÝ
Chương hai :
VÀI HÌNH THỨC TƯƠNG ĐƯƠNG BÀI GIÁO LÝ
Chương ba :
TRƯỚC VÀ SAU MỘT BÀI GIÁO LÝ
Chương bốn :
GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Chương năm :
TÂM LÝ CHUNG CỦA CÁC HỌC VIÊN GIÁO LÝ
Chương phụ lục :
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
Chương mở đầu
NHỮNG ĐÒI HỎI QUAN YẾU NƠI GIÁO LÝ VIÊN
Muốn hướng dẫn Giáo Lý có hiệu quả, hoặc chí ít là để tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc, cần phải đạt được những điều kiện; trong số đó có những điều kiện thiết yếu sau đây mà một Giáo Lý Viên không thể không có :
- Đời sống thiêng liêng.
- Nhiệt thành tông đồ.
- Kiến thức tôn giáo.
- Khả năng sư phạm.
I. MỘT ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG SÂU SẮC
1- ‘Không thể cho người khác cái mà mình không có’. Giáo Lý viên không thể thông truyền đức tin cho người khác được nếu chính bản thân Giáo Lý viên đó không có đức tin hoặc có một đức tin quá yếu kém và què quặt. Chỉ có những ai có một đức tin sống động mới có thể chu toàn sứ mạng của mình được trong nhiệm vụ thông truyền và giáo dục đức tin cũng như làm tăng trưởng đức tin nơi người khác.
2- Chỉ những Giáo Lý Viên nào có một cảm nghiệm đích thân về Thiên Chúa mới có thể dẫn đưa người khác đến với Thiên Chúa được. Lời giảng dạy của Giáo Lý Viên đã quan trọng, nhưng lối sống của Giáo Lý Viên còn quan trọng hơn rất nhiều. Trước khi là thầy dạy, Giáo Lý Viên phải là một chứng nhân. Các học viên Giáo Lý sẽ không bao giờ chấp nhận một Giáo Lý Viên ‘nói thì hay mà cày thì dở’. Phải ‘sống với Chúa’ để minh chứng cho việc ‘nói về Chúa’.
II. MỘT TẤM LÒNG NHIỆT THÀNH TÔNG ĐỒ
1- Một Giáo Lý Viên có một lòng nhiệt thành tông đồ thật sự sẽ rất đắc lực trong việc mở mang Nước Chúa cũng như đạt hiệu quả tốt trong việc dạy Giáo Lý. Ngọn lửa nhiệt thành trong tâm hồn càng dâng cao thì nó ắt sẽ tỏa sáng và lan rộng; tỏa sáng cho mọi người và lan rộng đến mọi người, đồng thời nó cũng tỏa sáng cho chính Giáo Lý Viên trong việc tìm tòi và sáng tạo làm tăng hiệu năng trong công việc dạy Giáo Lý.
2- Lòng nhiệt thành và tình yêu mến (yêu mến Chúa, yêu mến các linh hồn và yêu mến sứ mạng) sẽ giúp Giáo Lý Viên đào sâu và khơi rộng thêm những hiểu biết về Thiên Chúa cũng như về sứ mạng của chính mình, nhờ đó sẽ gắn bó hơn nữa với sứ mạng được giao phó, dám sống chết với sứ mạng đó. Lòng nhiệt thành còn giúp Giáo Lý Viên vượt qua một cách dễ dàng những khó khăn bất tiện trong đời sống hàng ngày cũng như trong khi thi hành sứ mạng.
III. MỘT NỀN TẢNG GIÁO LÝ VỮNG CHẮC
1- Giáo Lý Viên phải được học hỏi và bồi dưỡng liên tục về nội dung Giáo Lý tức là Nhiệm cục Cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người cùng với ‘Mầu nhiệm trung tâm của trung tâm’. (Mầu nhiệm Phục sinh là trung tâm của cuộc đời Chúa Kytô, mà Chúa Kytô là trung tâm của Lịch sử Cứu độ ; nên Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kytô được gọi là ‘Mầu nhiệm trung tâm của trung tâm’.)
Nói cách khác, nội dung Giáo Lý là : Lịch sử Cứu Độ mà Chúa Kytô là trung tâm cùng với Mầu nhiệm Phục Sinh của Người, phải được các Giáo Lý Viên nắm vững và không ngừng được học hỏi thêm.
2- Một Giáo Lý Viên có một kiến thức tôn giáo phong phú sẽ giúp các học viên dễ dàng có một ý niệm về Thiên Chúa đúng đắn hơn, để có thể đến gần, trò chuyện và sống thân mật với Chúa hơn. Ngược lại, một Giáo Lý Viên kém cỏi về mặt này có khi lại làm các học viên nghi ngờ những gì được nghe và đôi khi lại nghi ngờ chính Thiên Chúa nữa...
ĐGH Pio XI nói : ‘Ngu dốt về Giáo Lý là một sự nhục nhã cho các nước Kytô giáo Âu châu’. Còn ĐGH Pio XII thì nói : ‘Ngu dốt Giáo Lý là một vết thương toang hoác bên cạnh sườn Giáo Hội’.
IV. MỘT CỐ GẮNG VỀ SƯ PHẠM VÀ TÂM LÝ
1- Giáo Lý Viên cần phải có một khoa sư phạm để có thể truyền đạt Giáo Lý một cách có hệ thống, có phương pháp nhằm nâng cao tối đa hiệu năng. Tuy vậy, không phải chỉ cần trải qua một ít thời gian học hỏi về Sư phạm Giáo Lý là đã có thể an tâm trong việc dạy Giáo Lý, mà phải không ngừng học hỏi và vươn lên. Phải tự mình rút tỉa kinh nghiệm đồng thời cũng học hỏi nơi các Giáo Lý Viên khác để có những đổi mới cho phù hợp với thính giả, với môi trường và với những điều kiện khách quan khác trong việc truyền đạt Lời Thiên Chúa.
2- Ngoài ra, Giáo Lý Viên còn phải chú trọng đến tâm lý của các học viên của mình, cách suy nghĩ cũng như khả năng tiếp nhận ... Nhưng trên hết, Giáo Lý Viên phải có thiện cảm và tình yêu thương thật sự dành cho các học viên của mình. Bất cứ công cuộc giáo dục nào muốn thành tựu phải được đặt trên nền tảng của yêu thương, nhất là đối với thanh thiếu niên. Làm cho các em sợ thì dễ, nhưng làm cho các em yêu thích thì rất khó. Hơn nữa, giáo dục là cảm hóa, mà chỉ tình yêu mới có sức mạnh cảm hoá. Trong công cuộc giáo dục đức tin, điều này càng đúng hơn nữa vì ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1 Jn 4. 8,16) và yêu thương chính là giới luật trọn hảo của Kytô-giáo (x. Jn 13. 35).
* Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm nói : ‘Các tài liệu của Huấn Quyền đều nhấn mạnh đến việc đào tạo Giáo Lý Viên một cách toàn diện và chuyên biệt’.
(- Toàn diện là bao gôm mọi chiều kích của công việc mà các Giáo Lý Viên.
- Chuyên biệt là phù hợp với đặc tính của công việc mà các Giáo Lý Viên được mời gọi giúp các mục tử.)
* ĐGH Joan Phaolo II cũng minh định : ‘Để bảo đảm cho sứ vụ của Hội Thánh có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện Giáo Lý Viên về các mặt, từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn’.
Chương một
TIẾN TRÌNH CĂN BẢN CỦA MỘT BÀI GIÁO LÝ
Trong cùng một khoảng thời gian dành cho giờ Giáo Lý (5O-7O phút) nhưng tùy theo số lượng và lứa tuổi của học viên mà chúng ta có những bước đi khác nhau. Tuy vậy cũng xin đưa ra một tiến trình căn bản, cách chung gồm bảy bước :
+ Cầu nguyện mở đầu.
+ Bài giảng.
+ Nghe Lời Chúa.
+ Cầu nguyện.
+ Sinh hoạt.
+ Chép bài.
+ Cầu nguyện kết thúc.
* Vài điểm nhỏ cần lưu ý :
- Mỗi bước trong một bài Giáo Lý không nhất thiết phải bằng nhau về thời gian.
- Có thể rút ngắn (hay kéo dài) phần này hay phần kia để cho bài Giáo Lý thêm linh động, phù hợp. Cũng vậy, có thể rút bỏ phần nào kém quan trọng...
- Như chúng ta đã thấy, phần cầu nguyện được đặt ở trung tâm bài Giáo Lý, rồi mở đầu và kết thúc của bài Giáo Lý cũng là cầu nguyện; như vậy đủ thấy tầm quan trọng của nó, đồng thời cũng thấy sự khác biệt giữa một giờ học Giáo Lý và một lớp học phổ thông.
- Lược đồ bảy bước này rất thích hợp cho các học viên nhỏ tuổi (7-15 tuổi) nhưng có vẻ không phù hợp lắm cho những học viên ở tuổi lớn hơn.
- Lớp học quá đông sẽ rất khó khăn về mặt sư phạm.
1- Cầu nguyện mở đầu
- Thông thường các Giáo Lý Viên nên đến lớp sớm hơn giờ học một chút để có thời gian đón tiếp, thăm hỏi các em; đồng thời cũng để ổn định phòng ốc. (Một kinh nghiệm riêng : đừng để các em chơi những trò chơi vận dụng quá nhiều thể lực liền trước giờ học Giáo Lý)
- Khi đã ổn định lớp xong mới cầu nguyện mở đầu, chứ không phải cầu nguyện là một cách để ổn định lớp.
- Hình thức cầu nguyện vắn tắt và thường xuyên thay đổi cho đỡ nhàm chán.
- Mục đích :
+ Đặt các em trước mặt Chúa.
+ Xin Chúa thánh hoá giờ học.
+ Tạo bầu khí tôn giáo.
- Để đạt được những mục đích đó, trước khi cầu nguyện cần nhắc nhở các em trước về tư cách tác phong, cử chỉ thái độ. Thông thường trong tư thế đứng nghiêm trang, khoanh tay hoặc chắp tay.
2- Bài giảng
- Đây chính là phần trình bày nội dung của bài Giáo Lý, nhưng trước khi giảng bài mới, cần có một ít thời gian để kiểm tra sơ lại bài cũ.
- Có 2 cách giảng : độc thoại và đối thoại.
+ Nếu độc thoại thì nên giảng ngắn vì sức chú ý của học viên có giới hạn.
+ Nếu đối thoại thì có thể dài hơn (với cách này nên lưu ý 2 điểm đừng quá dài để ‘cháy giáo án’ và coi chừng bị lạc đề vì các câu hỏi của học viên).
- Sự chú ý của các học viên đang lên cao ở khoảng thời gian này, do đó phải khai thác tối đa bằng cách sắp xếp các ý tưởng thật mạch lạc, chọn kiểu nói dễ hiểu và cắt bỏ những gì dư thừa và phụ thuộc.
- Bài giảng còn được coi như một bài nói chuyện của Giáo Lý Viên, phải làm sao đạt được đồng thời hai mục đích: trình bày đề tài bài học và khêu gợi tâm tình tôn giáo phù hợp với đề tài bài học.
- Thường thì các Giáo Lý Viên hay dùng phương pháp quy nạp : khởi đầu bằng một sự kiện cụ thể hoặc một câu chuyện để rút ra một kết luận, một bài học, rồi áp dụng vào bài Giáo Lý đang trình bày.
3- Nghe Lời Chúa
- Trong phần bài giảng, các học viên đã được nghe giải thích Lời Chúa, bây giờ được nghe trực tiếp chính Lời của Chúa về đề tài đã trình bày trong bài giảng.
- Chọn vài câu ngắn, nội dung dễ hiểu để đọc cho các học viên nghe.
- Điều quan trọng là tập cho các học viên có thái độ tôn kính tiếp nhận Lời Chúa với lòng tin, để nhờ đó, Lời Chúa tác động từng bước trong tâm hồn các học viên.
4- Cầu nguyện
Đây chính là chóp đỉnh của một bài Giáo Lý. Tâm tình tôn giáo được bài giảng đánh thức rồi được tăng cường bằng việc nghe Lời Chúa, giờ đây kết tinh lại thành lời nguyện sống động trong mấy phút đối diện với Thiên Chúa.
5- Sinh hoạt
- Phần sinh hoạt dài hay ngắn tùy vào số lượng và độ tuổi của học viên: học viên ít và nhỏ tuổi thì sinh hoạt dễ và dài hơn.
- Phần sinh hoạt này có hai mục đích :
+ Với các học viên : giúp hiểu sâu hơn bài học đồng thời thích thú với những gì đã học được bằng việc chủ động vận dụng tất cả các khả năng và cơ năng (óc thẩm mỹ, trí tưởng tượng, khéo léo chân tay...).
+ Với Giáo Lý Viên : giúp đánh giá dược mức độ hiểu bài của học viên đồng thời kiểm điểm lại cách thức giảng bài của mình.
6- Chép bài
- Sau khi sinh hoạt nên tóm tắt lại bài học, đúc kết, đề ra phần áp dụng (thực hành) sau đó cho chép vào tập rồi chỉ bài phải học thuộc lòng ở nhà.
- Lần tới cũng nên hỏi bài lại xem các em đã hiểu bài và thuộc bài tới đâu, nếu cần cũng nên cho điểm để khuyến khích thi đua (thi đua chứ không phải ganh đua). Nên khảo bài vì ở tuổi học sinh dù có tự giác tới đâu vẫn cần phải có người thúc đẩy.
7- Cầu nguyện kết thúc
Cuối cùng là phần cầu nguyện kết thúc có tính cách tạ ơn và dốc lòng thực hiện những điều đã lãnh hội trong lớp Giáo Lý. Cũng giống như phần cầu nguyện mở đầu, hình thức nên thay đổi, đơn giản và vắn tắt.
I. CẦU NGUYỆN TRONG BÀI GIÁO LÝ
Như trên ta thấy, trong một bài Giáo Lý có ba lần cầu nguyện. Hình thức và nội dung của phần cầu nguyện mở đầu và kết thúc hơi giống nhau nhưng lại khác hẳn so với phần cầu nguyện ở trung tâm bài Giáo Lý (được gọi là phần cầu nguyện đỉnh cao của bài Giáo Lý)
1- Cầu nguyện mở đầu và kết thúc
Một Giáo Lý Viên giàu kinh nghiệm có thể đánh giá gần đúng tâm lý các học viên, những gì các em học hỏi được cũng như kết quả của một bài Giáo Lý bằng cách quan sát cử điệu và tâm tình của các em trong lời cầu nghyện mở đầu và kết thúc.
- Mục đích chính của cầu nguyện mở đầu và kết thúc là : xin Chúa thánh hoá giờ học và tạ ơn Chúa về giờ học đã qua.
- Hình thức nên ngắn gọn và luôn thay đổi để khỏi nhàm chán, trở thành một ‘thủ tục’
Có nhiều hình thức : Hát một bài ngắn, đọc một lời nguyện tắt do Giáo Lý Viên hoặc một học viên tự phát (với các em nhỏ, Giáo Lý Viên có thể đọc từng câu cho các em lặp lại, hoặc làm dấu Thánh Giá rồi thinh lặng giây lát cầu nguyện riêng...) nhưng thường gặp nhất là đọc một kinh (mở đầu : kinh Lạy Cha; kết thúc : kinh Sáng Danh)
2- Cầu nguyện đỉnh cao
Giáo Lý Viên cần huấn luyện cho học viên của mình có một tinh thần cầu nguyện.
a. Thái độ đối với Thiên Chúa :
Đây là một thái độ của tâm hồn. Muốn có thái độ đúng đắn khi cầu nguyện, trước tiên phải xác định vị trí của chúng ta đối với Thiên Chúa (nói khác đi, phải tự vấn đáp : ‘Thiên Chúa là ai đối với tôi ?’.
- Thái độ của một tạo vật đối với Đấng Tạo Hoá :
+ Thờ lạy (Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối).
+ Ca tụng (Thiên Chúa là Đấng tuyệt mỹ).
+ Tri ân (Thiên chúa là Đấng nhân hậu và giàu tình thương...).
- Thái dộ của một người con đối với cha hiền :
+ Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta và cho chúng ta trở thành con của Ngài.
+ Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn (‘Abba’ - Cha ơi !)
+ Giống như Chúa Giêsu, đối với Chúa Cha, chúng ta cũng có tâm tình của một người con : yêu mến, kính trọng, vâng lời, cậy trông, phó thác...
- Thái độ của một tội nhân :
+ Khao khát Ơn Cứu Độ.
+ Tin tưởng và cậy trông vào lòng nhân lành của Chúa.
+ Ý thức thân phận dòn mỏng, yếu đuối, dễ sai phạm... của một tạo vật bất toàn.
# Nếu thật sự có được những tâm tình ấy, giờ cầu nguyện sẽ hết sức thâm trầm, sâu lắng và đạt được kết quả tốt.
b. Những điều kiện thiết yếu :
Cần phải có vài điều kiện thuận lợi để có thể gặp gỡ Thiên Chúa thật sự trong lời cầu nguyện.
- Đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa :
Nói chuyện với ai thì tiên vàn người ấy phải có mặt ; vậy phải ý thức rằng Thiên Chúa đang hiện diện với mình rồi cố gắng hiện diện với Thiên Chúa và nói với Ngài bằng những tâm tình thật sự của mình (để cho trẻ ý thức Thiên Chúa hiện diện, Giáo Lý Viên nên hướng dẫn các em bằng những kiểu nói cụ thể, bằng tranh ảnh - ảnh tượng - bàn thờ - nến ... hoặc qua thiên nhiên)
- Có chuyện để nói với Thiên Chúa :
Cần tập cho các em hiểu : cầu nguyện là nói với Thiên Chúa những điều mình có ở trong lòng ; Do đó sau khi đã đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nên gợi cho các em một tâm tình thích hợp, (trong bài Giáo Lý, tâm tình này đã được chuẩn bị trước bằng bài giảng) sau đó giúp các em tìm những lời nói và cử chỉ thích hợp để diễn tả tâm tình.
- Tạo một bầu khí thuận lợi :
Phải cố gắng lo liệu sao cho phần cầu nguyện được lồng trong một bầu khí tôn nghiêm, tự do và yên tĩnh.
+ Tôn nghiêm : vì có Thiên Chúa hiện diện.
+ Tự do : không ép buộc, nhưng thuyết phục và khuyến khích các em tự ý trút bỏ mọi sự để đến với Thiên Chúa.
+ Yên tĩnh: Ta khó chủ động được hoàn cảnh bên ngoài nhưng nó lại khá quan trọng. Dù vậy, chúng ta cũng có thể khắc phục bằng cách, nếu thấy bầu khí bên ngoài quá ồn ào khiến các em không cầm trí được, hãy tạm hoãn lại, đợi lúc khác thuận tiện hơn sẽ cầu nguyện.
- Thái độ của Giáo Lý Viên
Thái độ của Giáo Lý Viên trong giờ cầu nguyện rất quan trọng đối với các em. Chúng có thể cảm thấy đang đứng trước mặt Thiên Chúa (hay không) phần lớn là do chính thái độ của Giáo Lý Viên. Do đó, Giáo Lý Viên phải hết sức trang nghiêm trong khi cầu nguyện. Phải cùng cầu nguyện với các em trước mặt các em. (Kinh nghiệm riêng : khi cầu nguyện cùng với các em nhỏ nên đứng đối diện với các em ; ngược lại với các em lớn hơn, khi cầu nguyện có thể đứng cùng phía với các em, cùng hướng lên ảnh tượng hay một điểm cố định nào đó. Nếu trong phòng học có hai dãy bàn, nên đứng ở giữa)
Nếu cần phải sửa lỗi thì để sau khi cầu nguyện xong, làm một cách dịu dàng và ôn tồn. Nhưng tốt nhất nên nhắc nhở các em trước khi cầu nguyện.
c. Cách diễn tả tâm tình :
Các hình thức bên ngoài (lời nói, cử điệu...) là cần thiết, nhưng sẽ rất vô dụng nếu không có chiều sâu và phát xuất từ nội tâm. Cũng không nên cầu kỳ, càng đơn giản càng tốt.
- Cử điệu : Thường chúng không thể phát biểu được thành lời những tâm tình dồi dào, sâu lắng thật sự bên trong, nên các em hay biểu lộ ra bằng những cử chỉ bên ngoài, có khi hết sức giản dơn nhưng giàu ý nghĩa :
+ Bái gối, cúi đầu : Ý thức mình bé nhỏ trước Thiên Chúa.
+ Dấu Thánh giá : Trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa.
+ Chắp tay : Hướng về Chúa.
+ Nhắm mắt : Tìm kiếm, chiêm ngắm Đấng Vô Hình.
+ Im lặng : Lắng nghe tiếng Chúa.
Đó là những cử điệu tự các em có thể thể hiện được, nên chỉ thêm cho các em những cử điệu khác : cúi đầu, đấm ngực (ăn năn, thống hối... như người thu thuế) hoặc nâng cao hai tay khi hát ‘Con xin dâng lên tòa Chúa uy linh’ hay ‘ Hai tay con dâng lên Ngài thế giới’...
Ngay cả khi tâm trí mỏi mệt, nếu vẫn giữ được thái độ kính cẩn, trang nghiêm cũng là một cách cầu nguyện tuyệt hảo.
- Lời nói : Đừng quá khuôn sáo với những lời cầu nguyện quen dùng nhưng lại nghèo nàn ý nghĩa. Nên tập cho các em làm quen với những lời mà Giáo Hội thường dùng để thưa chuyện với Thiên Chúa (Phụng vụ)
+ Những lời trong Thánh vịnh (các bài đáp ca) ‘Chúa là mục tử’ , ‘Từ vực sâu’.
+ Những lời mang tính tôn thờ (Kinh Vinh Danh)
+ Những lời dành riêng cho Thiên Chúa: ‘Tạ ơn Chúa’ , ‘Amen’ , ‘Xin Chúa thương xót’...
(Vì là những câu quen thuộc, nên tránh tục hoá. Phải dùng một cách kính cẩn kèm theo lời giải thích ý nghĩa sâu xa của chúng...) Nếu chúng ta càng dựa vào Thánh kinh và Phụng vụ, các em nhỏ sẽ càng mau quen với một lối cầu nguyện đơn giản, khiêm tốn nhưng đại đồng, quy về Thiên Chúa và do Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Tuy vậy, cũng nên tôn trọng những lời nói biểu lộ những tâm tình thật sự của các em.
- Thinh lặng : Thinh lặng cũng là một phần của phút cầu nguyện. Khi cầu nguyện chung nên có một chút yên lặng (hoặc trước hoặc sau).
+ Im lặng trước : Sau phút im lặng, lời cầu nguyện chung sẽ là lời tóm kết các ý nguyện thầm của riêng mỗi người trước đó. Sau lời cầu nguyện chung, tất cả thưa ‘Amen’.
+ Im lặng sau : Sau khi đọc lời nguyện chung, mỗi người cầu nguyện và suy niệm riêng theo ý được gợi lên.
- Nội tâm hoá : Ban đầu trẻ em diễn tả tâm tình bằng những cử điệu, lời nói, tiếng ca... theo đúng như Giáo Lý Viên, nhưng nên dần dần tập cho các em biệt vị hoá và nội tâm hoá lời cầu nguyện của mình theo tiến trình sau :
+ Cho các em lặp lại lớn tiếng những gì ta đọc trước, sau đó dần dần nhỏ hơn rồi đến thầm thĩ trong lòng.
+ Làm trước những cử điệu cho các em bắt chước trong khi vẫn cầu nguyện lớn tiếng, sau đó cắt nghĩa cho biết các em phải làm gì, rồi để các em tự làm lấy.
+ Đưa ra nhiều cách diễn tả tâm tình rồi cho các em tự chọn kiểu nào tùy thích.
+ Gợi tâm tình rồi để các em tự diễn tả tâm tình đó.
+ Sau mỗi lần cầu nguyện riêng, nhớ cho tất cả cùng cầu nguyện chung bằng một bài hát, một thánh vịnh hoặc một lời nguyện chung tự phát, tất cả thưa ‘Amen’ .
d. Vài cách thức cầu nguyện trong giờ Giáo Lý :
- Giáo Lý Viên nói lớn tiếng từng câu ngắn (hoặc nhờ một học viên đại diện), các học viên lặp lại lớn tiếng (hoặc thầm trong lòng) từng câu.
- Cầu nguyện đối đáp kiểu ‘kinh cầu’ hoặc giống ‘đáp ca’ trong thánh lễ : Giáo Lý Viên thay đổi lời nguyện, các học viên lặp lại cùng một câu đáp sau mỗi lời nguyện.
- Chia thành hai nhóm, luân phiên nhau đọc từng lời nguyện (nên soạn ra giấy hoặc ghi lên bảng trước).
- Giáo Lý Viên (hoặc một học viên) ‘chủ sự’ đọc một lời nguyện, tất cả thưa ‘Amen’.
- Đọc một kinh thật chậm và bảo các em chú ý đến từng lời mình đọc hoặc dừng lại sau mỗi câu và giải thích ý nghĩa câu đó. Nên giải thích ngắn gọn, dễ hiểu, đi thẳng vào tâm hồn và đánh động tâm hồn các em.
- Giáo Lý Viên không gợi lên tâm tình nữa nhưng đưa ra một đề tài, các học viên tự tìm ra tâm tình thích hợp để cầu nguyện. Cách này khó hơn vì đòi hỏi phải trưởng thành, do đó chỉ có thể áp dụng cho các em lớn, quen suy nghĩ.
e. Cách thức soạn một lời nguyện :
Một lời nguyện cân đối và đầy đủ, theo mẫu những lời nguyện chính thức của Giáo Hội gồm có bốn phần như sau :
- Trình bày lý do : Thường dựa vào một lời Chúa phán, một việc Chúa làm, một ưu phẩm của Chúa hoặc một biến cố xảy ra...
- Trình bày nội dung : Nêu lên điều mình muốn xin...
- Trình bày mục đích : Xin ơn đó để làm gì . Thường có hai mục đích chính : mục đích liên quan đến con người (bản thân mình, thân nhân, tha nhân, Giáo Hội, thế giới...) và mục đích liên quan đến Thiên Chúa (làm vinh danh Thiên Chúa).
- Kết thúc : Cậy trông Thiên Chúa sẽ ban cho, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kytô.
# Thí dụ :
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: ‘Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít... ‘ (trình bày lý do).
Xin Chúa cho chúng con biết vâng theo tiếng Chúa gọi, dấn thân trong đời sống tu trì... (trình bày nội dung).
Để chúng con có thể gieo rắc ơn cứu độ của Chúa, sinh ích cho nhiều linh hồn (mục đích 1) và làm cho Nước Chúa trị đến (mục đích 2).
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kytô Chúa chúng con. Amen (kết thúc).
# Cơ cấu cổ điển của một lời nguyện là như vậy, nhưng lời nguyện cũng có thể rất uyển chuyển. Điều quan trọng là đơn giản và chân thực, nói lên được những tâm tình mà mình muốn nói với Thiên Chúa.
II. KỂ CHUYỆN TRONG BÀI GIÁO LÝ
Thông thường, bài Giáo Lý được trình bày theo lối quy nạp, cho nên trong phần bài giảng thường lấy một câu chuyện cụ thể làm khởi điểm rồi theo đó, trình bày đề tài của bài Giáo Lý.
1- Các loại chuyện :
Những chuyện kể trong bài Giáo Lý được chia thành ba loại :
- Các câu chuyện trong Kinh thánh.
- Các câu chuyện về lịch sử Giáo Hội và cuộc đời các thánh.
- Các câu chuyện thời sự hoặc thường nhật.
a. Các câu chuyện trong Kinh thánh :
- Trong Cựu Ước lẫn Tân Ước có rất nhiều những câu chuyện hay mà không phải các tín hữu ai cũng biết rõ, nhất là bối cảnh của câu chuyện. Những câu chuyện này mang tính chất và nội dung tôn giáo rất cao cho nên rất tốt và rất thích hợp để dùng trình bày đề tài trong một bài Giáo Lý.
- Các Giáo Lý Viên khi soạn bài nên ưu tiên cho loại chuyện này vì khi chuyển sang áp dụng vào bài Giáo Lý sẽ rất dễ dàng, mạch lạc và tự nhiên.
- Các câu chuyện trong Cựu Ước :
+ Chuyện về các nhân vật và cuộc đời của họ. (Abraham, Mosé, David...).
+ Chuyện về các biến cố (Hồng thủy, Xuất hành, chiến thắng quân thù...).
+ Chuyện sự tích (từ ngữ Babel, Manna...).
+ Chuyện giáo dục (tôn giáo và nhân bản : trung tín vâng lời...).
- Các câu chuyện trong Tân Ước :
+ Chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu (Truyền tin, Tử nạn, Phục Sinh...).
+ Chuyện về các dụ ngôn (hạt cải, cỏ lùng, tiệc cưới, cây nho...).
+ Chuyện về các phép lạ (bánh hoá nhiều, nước hoá rượu, chữa bệnh...).
# Cần lưu ý:
Một câu chuyện trong Kinh thánh có thể có rất nhiều ý nghĩa, do đó có thể dùng để trình bày nhiều đề tài Giáo Lý khác nhau. Tuy vậy trong mỗi bài Giáo Lý chỉ nên dùng một ý nghĩa thích hợp với đề tài đó thôi, đừng nên pha trộn hoặc liệt kê hết tất cả các ý sẽ làm loãng đi ý chính và làm cho các học viên không nắm được chủ ý.
b. Các câu chuyện về lịch sử Giáo Hội và cuộc đời các thánh :
- Đây cũng là một kho tàng phong phú chứa đựng rất nhiều những sự kiện có thể dùng trình bày các đề tài Giáo Lý. Tuy nhiên phải lựa chọn thật kỹ lưỡng và áp dụng thật khéo léo và nhất là phải hết sức trung thực chứ đừng ‘vẽ râu’ cho các thánh hay ‘thêm mắm muối’ vào lịch sử Giáo Hội. Những tình tiết ly kỳ, huyễn hoặc, phi lịch sử cần phải loại bỏ vì dù có thể làm cho các em thích thú nhất thời nhưng sẽ làm hại cho đức tin của các em sau này.
- Với các câu chuyện loại này, đòi các Giáo Lý Viên phải tham khảo nhiều tài liệu và sách vở. Sau đây là vài gợi ý :
+ Ơn gọi làm tông đồ : thánh Phaolô.
+ Thiên Chúa là tuyệt đối, là hạnh phúc thật : thánh Augustino.
+ Tinh thần nghèo khó vì Nước Trời : thánh Phanxicô Assisi.
+ Tinh thần truyền giáo : thánh Phanxicô Xaviê.
+ Chứng nhân : Các thánh Tử đạo Việt nam.
+ Tinh thần bé thơ : thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
+ Gương trinh trong : thánh Maria Goretti.
+ Chết cho người khác : thánh Maximiliano Kolbê.
c. Các câu chuyện thời sự hoặc thường nhật :
Những câu chuyện có tính thời sự hoặc xảy ra hàng ngày cũng có thể dùng làm khởi điểm cho bài Giáo Lý, tuy nhiên phải hết sức thận trọng nếu không muốn bị ‘lạc quẻ’ , ‘trơ trẽn’ hay phản tác dụng. Chỉ chọn những câu chuyện loại này khi hội đủ hai điều kiện :
- Thích hợp với chủ đề tôn giáo (ít ra cũng không được mâu thuẫn).
- Có thể chuyển sang đề tài Giáo Lý một cách dễ dàng, không gượng ép, giả tạo.
2- Cách kể chuyện
- Kể chuyện trong giờ Giáo Lý không phải với mục đích mua vui hay giải trí cho các học viên nhhưng là một phương thế dẫn tới Tin Mừng và truyền đạt Tin Mừng. Do vậy phải lự chọn những câu chuyện có thể áp dụng được vào bài Giáo Lý.
- Vì mục đích đó nên khi kể chuyện phải loại bỏ những chi tiết rườm rà, dư thừa, không kiên quan đến vấn đề đang cần trình bày; nên trình bày ngắn gọn và cụ thể những nét làm nổi bật mà mình sẽ đem áp dụng vào bài Giáo Lý.
- Cần chú trọng đến tâm lý các nhân vật trong câu chuyện và tránh ‘huyền thoại hoá’, tiểu thuyết hoá’ câu chuyện.
- Trong khi kể chuyện nên để ý đến thái độ các em. Phải biết tự chủ, đừng để câu chuyện kéo mình đi.
- Khi kể chuyện, nên tận dụng hết mọi kỹ năng (cử chỉ, điệu bộ, diễn tả... lời nói mạnh nhẹ, bổng trầm...) để truyền đạt một ý tưởng, một tâm tình.
- Cần hết sức lưu ý đến thời gian : kể chuyện chỉ là một phần trong bài giảng và là một phần rất nhỏ trong bài Giáo Lý, đừng để mất quá nhiều thời gian cho câu chuyện kể mà bỏ đi những phần quan trọng khác.
# Tóm lại : Chính đề tài Giáo Lý phải hướng dẫn sự lựa chọn câu chuyện và cách kể chuyện.
III. VẤN ĐÁP TRONG BÀI GIÁO LÝ
Khi đi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng thường trả lời những câu hỏi do dân chúng đặt ra. Thí dụ : ‘Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?’ ( Jn1.38); dân chúng: ‘Ông có phải là Đức Kytô không ?’ (Mt 11.3) ; rồi người thanh niên giàu có : ‘Tôi phải làm gì để được sống đời đời ?’ (Mt 19.16)
Ngược lại, đôi khi Chúa cũng đặt ra câu hỏi cho người khác. Thí dụ : Với người mù : ‘Anh có tin vào Con Người không ?’ (Jn 9.35) hay với các Tông đồ : ‘Các con nói Thầy là ai?’ (Mt 16.15) ...
Khi giảng bài, Giáo Lý Viên nên đặt các câu hỏi ra cho học viên để các em chú ý hơn bài giảng đồng thời để trắc nghiệm xem các em hiểu bài như thế nào và hiểu đến đâu, ngoài ra còn giúp các em diễn tả được những suy nghĩ chính của mình. Bên cạnh đó cũng nên khuyến khích các em đặt ra câu hỏi, xét về tâm lý có nhiều ý nghĩa :
- Đặt câu hỏi là đã thắng vượt được tính e lệ, nhút nhát, thái độ lãnh đạm và khuynh hướng cá nhân ... và đã có thái độ cởi mở, muốn trao đổi và lắng nghe ...
- Đặt câu hỏi là xác định bản lãnh của mình : có những ý nghĩa riêng tư muốn mang ra đối chiếu với những ý nghĩ và quan tâm của người khác.
- Đặt câu hỏi là đã hiểu được một phần vấn đề, ngay cả khi chưa biết giải quyết thế nào nhưng ít nhất vẫn thấy là vấn đề cần phải giải quyết.
1- Giáo Lý Viên đặt câu hỏi cho học viên
Trên phương diện thực hành, xin tóm lược vài điểm cốt yếu khi đặt câu hỏi cho học viên (nhất là đối với học viên nhỏ tuổi) :
- Câu hỏi phải sáng sủa, đừng hàm hồ (Thí dụ : Đừng đặt câu hỏi ‘Có bó buộc phải dự lễ không?’...).
- Câu hỏi phải đơn giản, đừng gộp hai ba vấn đề vào một câu (Thí dụ : đừng đặt câu hỏi ‘Chúa sinh ra ở đâu, hồi nào, có ai đến viếng kèm theo biến cố gì xảy ra trên trời ? ‘...).
- Câu hỏi phải cụ thể, đừng chung chung (Thí dụ : đừng đặt câu hỏi ‘Em hiểu biết những gì về Thiên Chúa ?’...)
- Đừng cố tình đặt câu hỏi ‘quái gở’ để gài bẩy các em (Thí dụ : ‘Tại sao Thiên Chúa có bốn ngôi ?’...).
- Không nên chỉ hỏi những học viên giỏi hoặc một số học viên nào nhất định.
- Thường phải đặt câu trước cho cả lớp nghe, sau đó mới nhờ một em trả lời (tất cả sẽ chú ý hơn). Nếu câu trả lời chưa hoàn hảo, tiếp tục em thứ hai thứ ba bổ túc.
- Cấm tuyệt đối việc cười cợt hay chế giễu một câu trả lời sai ; ngược lại phải nhấn mạnh và khen tặng những chổ đúng của các em (dù chưa hoàn toán hoặc chỉ đúng dưới một khía cạnh nào, với một điều kiện nào ...).
# Tóm lại : Các câu hỏi của Giáo Lý Viên điều phải hướng về đề tài bài Giáo Lý. Các đáp ứng đúng đều nằm trong nội dung của bài đó. Cũng chính các câu hỏi này cũng có tác dụng dẫn các em đến việc chú ý nghe lời Chúa ở bước tiếp theo.
2- Học viên đặt câu hỏi
a/. Giáo Lý Viên tiếp nhận câu hỏi :
Trước hết phải có thái độ cởi mở, đón nhận. Phải làm cho các học viên thấy rằng mình biết lắng nghe và biết lưu tâm đến những ưu tư của các em, nhìn nhận giá trị của các em.
Không cần thiết phải trả lời ngay lập tức. Đó là biểu hiện ‘tự vệ’, sợ bị ‘bí’, cố gắng làm cho người hỏi phải ‘đầu hàng’ ngay, không còn gì để nói nữa. Ngoài ra, trả lời mà không có thời gian suy nghĩ thường là không đầy đủ và thiếu chính xác.
Phải đào sâu câu hỏi để tìm gặp tâm tư của người đặt câu hỏi. Đối với các em, câu trả lời đúng không hẳn là câu trả lời mau lẹ nhưng là câu trả lời trong đó các em cảm nhận nhận rằng : nó phát xuất từ đấy lòng của Giáo Lý Viên.
# Tóm lại : phải tạo nên một bầu khí tín nhiệm, thông hiệp và đối thoại, cùng nhau suy nghĩ tìm hiểu và soi sáng lẫn nhau chứ không phải là diễn đàn để ‘trổ tài đấu lý’.
- Giải thích rõ thêm câu hỏi :
Nhiều khi các học viên chưa quen diễn tả ý nghĩ của mình nên những câu hỏi được đặt ra còn vụng về và thiếu mạch lạc. Giáo Lý Viên phải phân tích, gạn lọc, sắp xếp và trình bày lại cho gẫy gọn và dễ hiểu. Đó là cách vừa giúp cho các em hiểu rõ câu hỏi vừa giúp các em biết cách đặt câu hỏi. Cũng có khi Giáo Lý Viên hỏi lại các em đó hoặc gợi ý để các em có thể từng bước xác minh ý nghĩ của mình và nổi bật lên vấn đề chính mà các muốn nêu ra.
b/. Giáo Lý Viên giải đáp :
- Phân loại câu hỏi : Trước khi giải đáp câu hỏi cần phải nhận định rõ câu hỏi này thuộc loại nào vì mỗi loại câu hỏi có cách giải thích riêng.
+ Câu hỏi nêu lên một vấn đề.
Câu hỏi này có nguyên nhân là do thiếu kiến thức, vì không biết hoặc biết chưa đầy đủ.
+ Câu hỏi gợi lên một mầu nhiệm.
Đây là loại câu hỏi khó giải đáp nhất, đưa đi rất xa đối với các lý luận trực tiếp bình thường. Vì liên quan đến mầu nhiệm, những chân lý đức tin mà con người không thể nào thấu đạt bằng kiến thức nhân loại.
+ Câu hỏi có dụng ý trêu chọc.
Những câu hỏi này thường ngoài vấn đề, thiếu nghiêm túc, thiếu xác tín hoặc là có ý ‘gài bẫy’...
- Giải đáp câu hỏi : Khi đã phân loại chính xác các dấu hỏi của học viên, Giáo Lý Viên có thể dễ dàng biết ngay mình sẽ trả lời cho các em theo hướng nào.
+ Câu hỏi nêu lên một vấn đề.
Với loại này, việc giải hết sức đơn giản là truyền thông kiến thức (do đó, điều kiện có đủ kiến thức tôn giáo của Giáo Lý Viên sẽ đứng hàng ưu tiên ở đây).
+ Câu hỏi gợi lên một mầu nhiệm.
Vẫn phải có một ít lý luận để thoả mãn phần nào cho lý trí, nhưng quan trọng hơn vẫn là :
• Sửa chữa, uốn nắn những sai lầm, ngộ nhận và thành kiến.
• Trình bày cho các em thấy những chứng từ, những kinh nghiệm sống của mình hoặc của người khác đã phấn đấu, khắc phục những khó khăn tương tự như thế nào (Điều này lại đòi hỏi nơi Giáo Lý Viên kinh nghiệm sống, vốn sống và kiến thức xã hội).
• Giúp cho các em hiểu : Có những điều mà trí khôn không thể với tới nên không thể trình bày và lãnh hội một cách minh bạch được. Những khó khăn thắc mắc đó chỉ có thể giải tỏa được bằng một đời sống trung tín trong đức tin và cầu nguyện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
+ Câu hỏi có dụng ý trêu chọc.
Với câu hỏi loại này, một mặt Giáo Lý Viên phải xem lại cách dạy của mình : có phù hợp với trình độ và sở thích của học viên không, đề tài có gần gũi và lay động các em không, phân chia giờ giấc có phù hợp không ... Khiến các em chán ngán, mệt mỏi, muốn giải trí ; Mặt khác cũng phải giải quyết vấn đề cho các em. Có hai cách giải quyết : Né tránh và đối phó.
• Né tránh : Nếu trường hợp không đủ giờ hoặc vì lý do gì khác, Giáo Lý Viên muốn né tránh vấn đề thì hứa sẽ trả lời chung cho cả lớp vào dịp khác hoặc sẽ trả lời riêng cho em đó, nếu em muốn.
• Đối phó : Nếu có thời giờ, hoặc vì muốn ngầm nhắc nhở học viên đó, có thể đối phó bằng cách hỏi lại chính em đó : ‘Nếu người khác hỏi em như thế, em sẽ trả lời thế nào ?...’ (Thông thường, với loại câu hỏi này ta nên lẫn tránh thì tốt hơn để đỡ làm mất giờ hoặc bị rơi vào ‘bẫy’ của các em).
* Vài lưu ý trong việc giải đáp câu hỏi
• Không nên trả lời hết mọi câu hỏi : Ngày xưa Chúa Giêsu cũng đã từng từ chối trả lời các kỳ mục và thượng tế : ‘Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền gì mà làm các điều ấy’ (Mt 21.27).
Các em khi đã quen với Giáo Lý Viên sẽ đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi các loại. Một mặt dặn dò các em chỉ hỏi những câu trong bài, còn những câu hỏi ngoài lề hoặc có tính cách riêng tư thì không nên đặc ra trong buổi học chung. Một mặt Giáo Lý Viên nên theo nguyên tắc : Chỉ trả lời những câu hỏi làm tăng thêm hiểu biết về chân lý mạc khải và ích lợi hoặc liên quan đến đa số học viên.
• Loại câu hỏi nêu lên một vấn đề thì khác một chút so với hai loại kia : nếu thật sự mình chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ thì nên nhận là chưa biết và hứa lần tới sẽ giải đáp sau khi đã tra cứu hoặc tham khảo ý kiến ... Tuy nhiên nên nhớ các học viên hay thần tượng hoá Giáo Lý Viên của mình và đòi hỏi Giáo Lý Viên phải có một hiểu biết sâu rộng và giải đáp những thắc mắc của các em, do đó các em rất khó chấp nhận một Giáo Lý Viên không biết điều mà các em hỏi.
• Trong trường hợp Giáo Lý Viên phát hiện ra lần trước mình đã trả lời sai cho các em thì phải càng sớm càng tốt đính chính lại. Việc này cấp thiết như một nhiệm vụ phải chu toàn bằng mọi giá. Nhẹ hơn một chút : Nếu lần trước trả lời còn thiếu, lần này nên bổ sung thêm. Cuối cùng là đừng quên xin lỗi các em.
IV. SINH HOẠT TRONG BÀI GIÁO LÝ
Trong một bài giáo lý có nhiều cách sinh hoạt, xin trình bày vài cách sau đây, được phân thành ba loại :
- Sinh hoạt từng học viên chung cho cả lớp.
- Sinh hoạt do một học viên làm thay cho cả lớp.
- Sinh hoạt theo từng phân nhóm.
1- Sinh hoạt từng học viên chung cho cả lớp
- Hát (hoặc nghe băng) một bài hát về đề tài đang học hỏi.
- Xem một tấm hình (bản đồ, phong cảnh, di tích lịch sử, đồ vật, người...) rồi chú thích hoặc nhận xét, nêu ý kiến.
- Cắt dán, vẽ sáng tác, phóng tác theo chủ đề hoặc vẽ bản đồ.
- Đặt câu hỏi cho học viên trả lời cho các em về nhà suy nghĩ.
- Kể một câu chuyện, yêu cầu học viên rút ra bài học, ý kiến, nhận xét, cảm tưởng...
- Bổ túc (hoặc sắp xếp lại) một câu Thánh Kinh, một lời nguyện, một đoạn Giáo Lý.
- Sáng tác một lời nguyện.
- Câu đố hoặc trò chơi Giáo Lý (phân biệt các hoạt động của xác và hồn hay tìm những nhân đức đối chọi với một tật xấu ...).
2- Sinh hoạt theo từng phân nhóm
- Mỗi nhóm soạn một lời nguyện (chủ đề có thể như nhau hoặc khác nhau).
- Mỗi nhóm vẽ một tấm ảnh lớn về chủ đề Giáo Lý.
- Mỗi nhóm chia vai nhau đối thoại theo kiểu Bài Thương Khó diễn một cảnh trong Phúc Âm.
- Mỗi nhóm tìm (trong Phúc Âm) một câu nói của Chúa Giêsu về một chủ đề.
- Làm lịch bổn mạng nhóm : Hình thánh bổn mạng, tên thánh bổn mạng, ngày kính, tên của học viên có Thánh bổn mạng đó ... rồi sắp xếp theo thứ tự từng tháng, đóng thành tập ... để dễ nhớ ngày mừng bổn mạng nhau.
- Làm tập ảnh : Mỗi nhóm tìm các hình liên quan đến một Bí Tích (một điều răng hay một mối phúc thật ... ) rồi dán vào tập. Nó có tính cách như một bộ sưu tập ...
3- Sinh hoạt do một học viên làm thay cả lớp
- Một học viên đọc một đoạn Thánh kinh (hay một đoạn sách) rồi tóm tắc ý chính.
- Một học viên tìm một hai câu Kinh thánh phù hợp với chủ đề Giáo Lý.
- Một học viên kể chuyện cho cả lớp nghe (Chuyện em nghe, em thấy hoặc đọc được).
- Một học viên cho biết ý kiến về bài Giáo Lý hay đoạn nào, điểm nào trong bài làm em chú ý và thích thú nhất, tại sao ?.
- Một học vên thay mặt cả lớp cầu nguyện lớn tiếng hoặc đề nghị một áp dụng thực tế.
# Lưu ý :
- Còn nhiều loại hình sinh hoạt khác nữa, nhưng phải làm sao hợp với hoàn cảnh cụ thể và chủ đích tôn giáo của bài Giáo Lý.
- Sinh hoạt trong bài Giáo Lý nhằm giúp cho học viên áp dụng điều đã học vào thực tế cuộc sống (đồng hoá), chứ không phải nhằm mua vui, giải trí. Nên tránh đừng để giờ Giáo Lý quá vui nhộn làm mất đi tính chất trang nghiêm tôn giáo, làm thiệt thòi cho nội dung bài giảng.
Chương hai
VÀI HÌNH THỨC TƯƠNG ĐƯƠNG BÀI GIÁO LÝ
Có vài hình thức sinh hoạt khác mà thời gian sinh hoạt cũng ngang bằng với một giờ Giáo Lý và tác dụng của nó cũng y hệt như thế, xin được trình bày :
- Lứa tuổi lớn : Thuyết trình, họp nhóm, hội thảo ...
- Lứa tuổi nhỏ : Đố vui, trò chơi, diễn kịch, hoạt cảnh ...
I. THUYẾT TRÌNH
Thuyết trình là một người trình bày nội dung một vấn đề cho một chủ tọa. Phương pháp này rất thông dụng trong khoa sư phạm. Nhưng thuyết trình Giáo Lý còn đòi hỏi cao hơn : Nó không chỉ nhằm truyền thông kiến thức mà còn loan Tin Mừng, để Tin Mừng này thấm nhập vào tâm hồn con người và biến đổi con người.
Do đó thuyết trình Giáo Lý phải :
- Theo diễn trình cụ thể.
- Gây phản ứng nơi cử toạ.
- Giúp suy tư và đồng hóa cá nhân.
1- Theo diễn trình cụ thể
Ngoài việc trình bày một chân lý, thuyết trình viên còn phải cố gắng tạo nên một cảm nghiệm, một tương quan, một sự hiệp thông giữa cử tọa với Thiên Chúa. Bởi vậy, trước khi thuyết trình Giáo Lý Viên hãy tìm hiểu kỹ tâm tư của các em, những lo âu và khát vọng của chúng... Sau đó mới đi hai bước tiếp theo :
- Chỉ cho các học viên thấy rằng : giải quyết vấn đề bằng kiểu nhìn trần tục thôi vẫn chưa đủ, vì những khó khăn có thể bị đẩy lùi nhưng vẫn tồn tại.
- Giúp cho các em nhận ra sự mới mẻ của Tin Mừng : Một mặt, Tin Mừng đảo lộn những dự định và cách nhìn của ta, đôi khi còn làm ta hụt hẫng, chới với... nhưng một mặt Tin Mừng lại cũng đáp ứng mọi ước vọng sâu xa của ta, khai thác mọi tiềm năng và giúp ta phát triển tối đa.
2- Gây phản ứng nơi cử tọa
Thuyết trình là hình thức độc thoại nên người nghe dễ bị thụ động. Để tránh nhược điểm đó, Giáo Lý Viên nên gây phản ứng cho các học viên của mình, làm cho chúng thích thú :
- Cho các em xem một tấm hình hay bức họa rồi để các em nhận xét hay ý kiến gì về ý nghĩa, hoặc bức ảnh đó gợi lên điều gì...
- Đưa ra hay nhắc lại một câu danh ngôn nào đó phù hợp với chủ đề mà ta đang thuyết trình rồi cho các em bình luận.
- Yêu cầu một học viên lược tóm đoạn vừa trình bày, sẽ rất thú vị nếu các em thật sự hiểu và trình bày lại vấn đề bằng ngôn ngữ của trẻ thơ.
- Lược tóm bằng hình vẽ, sơ đồ, thống kê...lên bảng. Giúp cụ thể hóa vấn đề và giúp các em dễ nhớ, dễ theo dõi.
- Trắc nghiệm.
3- Giúp suy tư và đồng hóa cá nhân
Vật dụng hữu ích nhất cho việc nầy là tập vở. Các em có thể ghi lại :
- Bản lược tóm ngắn gọn (do Giáo Lý Viên soạn và đọc cho chép). Đây là một văn bản súc tích làm khởi điểm cho những suy tư của cá nhân học viên đó.
- Những cảm nghĩ riêng tư và những khám phá của học viên. Trong phần nầy, các học viên cũng có thể ghi những sự kiện mình biết mà phù hợp với đề tài hay những câu Kinh Thánh để dẫn chứng. Ngoài ra các em cũng có thể ghi cả những thắc mắc chưa giải quyết được... Như vậy các em có dịp đối chiếu những ý nghĩ của mình. Đó chính là bước đầu của sự đồng hoá. Sau này, những sinh hoạt phụng vụ và tông đồ sẽ giúp các học viên đồng hoá được nhiều hơn nữa ... .
II. HỌP NHÓM
Giáo Lý Viên đưa ra một vấn đề dưới hình thức một câu hỏi. Các học viên chia thành từng nhóm bảy tám em cùng trao đổi, suy nghĩ về câu hỏi đó. Sau đó tất cả gom lại thông báo cho nhau kết quả trao đổi của nhóm mình rồi thảo luận chung. Giáo Lý Viên tổng hợp lại, làm nổi bật những ý hay, bổ túc hoặc đưa ra lời giải đáp cuối cùng cho vấn đề đã thảo luận.
1- Chuẩn bị
a/. Tìm câu hỏi :
- Khởi điểm là một trường hợp, một sự kiện hay một câu hỏi được Giáo Lý Viên nêu ra. Mục đích là gây thắc mắc để thảo luận và tìm ra lời giải đáp.
- Câu hỏi đó phải thật sự liên quan rất nhiều đến các em, đồng thời Giáo Lý Viên phải có sẵn lời giải đáp chính xác và sâu sắc.
- Trong muôn mặt của vấn đề, Giáo Lý Viên chỉ nên chọn một và đi thẳng vào những ước vọng, nhu cầu hay khó khăn của các em ở lứa tuổi đó.
- Cũng rất tốt nếu trước đó Giáo Lý Viên có thể tiếp xúc trước với một số em để biết được những dữ kiện làm nền tảng cho câu hỏi.
b/. Đặt câu hỏi :
- Vấn đề thì bình thường, nhưng cách nêu vấn đề cần phải có hình thức mới lạ, bí ẩn, sắc bén, và đôi khi bi thảm nữa để gây phản ứng.
- Câu hỏi có thề được nêu bằng lời nói, bằng chữ viết; hoặc nêu bằng một hình ảnh, một đoạn phim, một cột báo hay một biến cố có tính thời sự.
- Dù dưới hình thức nào, câu hỏi cũng phải hội đủ hai điều kiện : Hướng về tôn giáo và có một lời giải đáp xác đáng.
2- Trao đổi từng nhóm
- Chia thành từng nhóm để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người điều phát biểu ý kiến và xác định quan điểm của mình.
- Mỗi nhóm bầu ra một nhóm trưởng điều hành và sinh hoạt ; Khuyến khích mọi thành viên trong nhóm phát biểu ý kiến hoặc đưa cuộc trao đổi trở lại vấn đề chính.
- Mỗi nhóm cũng phải có một thư ký ghi lại những ý kiến đã phát biểu rồi tổng hợp lại để tường trình cho các nhóm khác trong cuộc họp chung.
- Đây chưa phải lúc đối chiếu các quan điểm mà chỉ là thu thập các ý kiến và cách nhìn nhận vấn đề. Ở đây, điều quan trọng là mọi tham dự viên điều cởi mở nói lên ý nghĩ của mình đồng thời biết lắng nghe ý kiến người khác, dù mình không đồng ý (Điều này không dễ đâu, nhất là trong những lần đầu !)
3- Họp chung
Sau khi trao đổi từng nhóm xong, tất cả sẽ họp chung để làm ba việc sau đây :
a/. Tường trình :
Thư ký của mỗi nhóm lên thông báo cho các nhóm khác về kết quả cuộc trao đổi của nhóm mình.
- Không phải thuật lại hết từng ý kiến một theo thứ tự nhưng phải phân loại và tổng hợp thành bốn điểm :
+ Tình hình chung của cuộc trao đổi nhóm.
+ Những vấn đề đã trao đổi.
+ Các ý kiến phân thành mấy loại (tóm tắt từng loại)
+ Những điểm nổi bật đáng chú ý trong cuộc trao đổi.
- Người trình bày sau không cần nhắc lại những gì người trước đã nói. (Có thể nói :
+ Nhóm tôi đồng ý với các nhóm trước về điểm ...
+ Xin bổ sung thêm những điểm này ...
+ Có quan niện hơi khác [ hoặc ngược lại về ...]).
b/. Thảo luận chung :
Trong khi các nhóm tường trình, Giáo Lý Viên nên ghi lại (tốt nhất là ghi lên bảng) theo từng loại :
- Những ý kiến có sự thoả thuận rộng rải.
- Những ý kiến còn mơ hồ cần bổ túc.
- Những ý kiến khác biệt nhau.
Sau đó mời tất cả cùng thảo luận (quan tâm đến hai loại phía sau).
c/. Đúc kết :
Thảo luận xong, Giáo Lý Viên tổng hợp các ý kiến lại một cách mạch lạc, đánh giá những ý kiến đó và làm nổi bật những ý kiến góp phần giải đáp vấn đề, cuối cùng là tóm lược lời giải đáp bằng một câu ngắn gọn. Tức là Giáo Lý Viên phải làm bốn việc :
- Đào sâu những nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi của học viên.
- Chấp nhận và xác định những ý kiến đúng.
- Lưu ý học viên những khía cạnh chưa ai để ý tới.
- Đúc kết thành một công thức dể hiểu và ngắn gọn.
4- Vài lưu ý
- Đôi khi cuộc thảo luận lúc họp chung bị lạc đề hoặc rối loạn . . . Ngoài khả năng tự chủ và hiểu biết sâu rộng, Giáo Lý Viên còn phải có một kỷ luật chặt chẽ để mọi người đều được phát biểu và mọi lời phát biểu đều có lợi cho mọi người.
- Kết quả của hình thức họp nhóm này tùy thuộc vào hai yếu tố : Sự đóng góp tích cực, chân thành của mỗi tham dự viên và sự hướng dẫn khéo léo, đúc kết chính xác của Giáo Lý Viên.
- Hình thức này đòi hỏi sự trưởng thành về suy luận và một kỷ luật tự nguyện nơi các tham dự viên.
Do đó, họp nhóm khó có thể áp dụng cho các học viên nhỏ tuổi hay yếu kém về kiến thức và khả năng suy nghĩ, hoặc chưa quen làm việc chung với nhau.
III. HỘI THẢO
Hội thảo có rất nhiều hình thức, nhưng ở đây chỉ đề cập đến hình thức thông dụng và đơn giản nhất được gọi là ‘panol’.
- Panol là một cuộc trao đổi giữa một nhóm người (gọi là hội thảo viên) trước một cử tọa về những kinh nghiệm bản thân, những quan điểm hoặc những cảm nghĩ của mình về một vấn đề nào đó.
- Theo đó, để trở thành một Panol cần phải có những điều kiện sau đây :
* Các hội thảo viên có những quan điểm khác nhau, nhưng đều có thể chấp nhận được và đem ra hội thảo.
* Cử toạ có quyền phát biểu cảm nghĩ của mình và có thể căn cứ vào những điều do các hội thảo viên trình bày để duyệt lại quan điểm riêng của mình.
1- Hội thảo Giáo Lý
Khi áp dụng Panol vào Giáo Lý, hội thảo không những chỉ là cơ hội để đối chiếu nhiều quan điểm khác nhau mà còn là một phương thức loan truyền Tin Mừng thiết thực với nhiều ưu điểm.
- Mọi tín hữu đều chấp nhận Lời Chúa và đức tin như nhau (vì trên một nền tảng chung), nhưng khi áp dụng vào hoàn cảnh và lĩnh vực cụ thể thì mỗi người đều có thái độ và sự lựa chọn khác biệt nhau. Hội thảo làm vọt lên những lý do của sự lựa chọn đó.
- Mỗi người đều được duyệt lại quan điểm của mình và được đối chiếu với các quan điểm khác nên sẽ thêm sáng suốt và xác tín hơn về lựa chọn của mình.
- Hội thảo còn là lớp học của thái độ lắng nghe, thông cảm, hiểu biết, tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt lẫn nhau song song với việc mở rộng kiến thức.
2- Diễn tiến cuộc hội thảo
a/. Chuẩn bị :
Trước ngày hội thảo, Giáo Lý Viên chọn một số học viên tình nguyện làm hội thảo viên. Cắt nghĩa hội thảo viên là gì ? Giải thích sơ lược đề tài hội thảo.
b/. Hội thảo viên :
Trong thời gian chuẩn bị, mỗi hội thảo viên phải suy nghĩ về lập trường của mình và những lý luận và bằng chứng để bảo vệ nó. (Có thể tham khảo ý kiến cha mẹ, thầy cô, bạn bè hoặc bất cứ ai). Nghĩa là phải : Hiểu rõ đề tài - Xác định quan điểm riêng của mình - Dùng lý lẽ, sự kiện và ví dụ để người khác có thể hiểu sự lựa chọn của mình.
c/. Phòng ốc :
Số hội thảo viên nên từ 6-8 trở lên (số chẵn). Hướng dẫn viên ngồi đối diện với cử tọa. Các hội thảo viên ngồi thành hai dãy đối diện nhau, không song song nhưng tạo thành một góc có đỉnh là hướng dẫn viên. Nên để những hội thảo viên nhút nhát ngồi gần hướng dẫn viên.
d/. Hướng dẫn viên :
Vai trò của hướng dẫn viên trong buổi họp hội thảo cũng giống như trong buổi họp nhóm : Tạo cơ hội cho mọi người phát biểu ý kiến, yêu cầu người phát biểu giải thích thêm ý kiến của mình hoặc trưng bằng chứng ; ví dụ cụ thể, hướng cuộc thảo luận và những điểm mới hoặc trở lại đề tài chính, phân chia giờ cho hợp lý.
Giáo Lý Viên có thể làm hướng dẫn viên hoặc mời một người khác cũng được để thêm phần khách quan, vô tư.
e/. Chia giờ trong buổi họp hội thảo :
- Hướng dẫn viên trình bày vấn đề : 5 phút.
- Các hội thảo viên thảo luận : 30 phút.
- Cử toạ đặt câu hỏi với hội thảo viên : 20 phút.
- Hướng dẫn viên kết luận : 5 phút.
Trong phần kết luận Giáo Lý Viên làm hai việc :
* Nhận định về mỗi lập trường : ưu điểm + giới hạn.
* Làm nổi bật những lý do biện minh và nền tảng đức tin của mỗi lập trường.
IV. ĐỐ VUI GIÁO LÝ
Nhằm kiểm tra học lực của học viên đồng thời tạo tinh thần thi đua học hỏi, chúng ta có thể tổ chức những cuộc thi ‘vui mà học, học mà vui’ gọi là đố vui Giáo Lý giữa các đội trong một lớp, giữa các lớp trong một họ đạo, giữa các họ đạo trong một hạt hay rộng hơn nữa . .
1- Cách tổ chức :
a/. Trước cuộc thi :
- Soạn câu hỏi.
- Mời người điều khiển (có thể chính là Giáo Lý Viên ).
- Mời vài giám khảo (cho biết trước câu hỏi và đáp án).
- Phòng ốc, bàn ghế.
- Chuông hoặc những mảnh thăm xếp nhỏ (tùy hình thức).
- Bảng để ghi điểm số.
b/. Trong cuộc thi :
Phải qui định trước một số luật lệ :
- Ấn định số người thi trong một nhóm, có được thay không ? Lúc nào ? .
- Ấn định số điểm cho mỗi câu hỏi.
- Ấn định thời gian trả lời cho mỗi câu hỏi.
- Có quyền bổ sung câu trả lời không ? Mấy lần ? Điểm ?
- Trả lời sai thì sao ?
(Ngoài ra, tùy theo hình thức tổ chức - bốc thăm - hái hoa dân chủ hay nghe đặt câu hỏi rồi bấm chuông ... mà chúng ta có thể quy định thêm những luật lệ để chế tài cho phù hợp với từng hình thức).
Để cho bầu không khí thêm sinh động, vui tươi, nên động viên khán thính giả vỗ tay tán thưởng những câu nói đúng, bắt đầu một bài hát hoặc cho biết điểm số sơ khởi...
2- Cách đặt câu hỏi
Dùng chính những câu hỏi trong sách Giáo Lý của các em cũng được, nhưng để kích thích trí thông minh, nhạy bén và thận trọng của học viên, cũng nên mở rộng những ‘câu hỏi thi đua’.
- Câu hỏi tổng hợp (‘Tên mẹ Chúa Giêsu là gì ? Tại sao bà được gọi là Mẹ Thiên Chúa’...).
- Câu hỏi sắp xếp (thứ tự thời gian các nhân vật, biến cố ...)
- Câu hỏi lựa chọn (chọn 12 tên thánh Tông Đồ trong một dãy tên nhân vật ...)
- Câu hỏi giải quyết một tình huống cụ thể.
- Câu hỏi đòi hỏi trí nhớ (Câu đó trong bài học nào hoặc Thánh ký nào ghi lại ? Chương mấy ? ... Tiếp theo câu đó hay trước câu đó là gì?...)
- Câu hỏi suy luận (‘Tổ phụ Abraham có bao nhiêu cháu nội ? ...’)
- Câu hỏi áp dụng (‘Chúa Giêsu chữa lành 10 người cùi mà chỉ có một người đến cám ơn Chúa. Điều đó dạy cho em bài học gì ? ...’)
- Câu hỏi thực hành (‘Em hãy phát biểu một lời cầu nguyện tự phát, xin Chúa chúc lành cho Cha Sở’).
- Câu hỏi đánh lạc hướng (‘Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình chim bồ câu đậu xuống các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ tuần ?’...)
- Câu hỏi có vật dụng bên ngoài phụ họa (‘Hãy chỉ Thành Bêlem nơi Chúa Giêsu sinh ra trên bản đồ nước Do Thái’...)
3- Lưu ý
- Còn rất nhiều cách đặt câu hỏi khác nữa tùy sáng kiến của Giáo Lý Viên và trình độ của học viên, nhưng trong mọi trường hợp câu hỏi phải luôn luôn có một đáp án đúng duy nhất.
- Khi tổ chức thi nên nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, ham học hỏi và mở mang kiến thức chứ không phải vì tính hiếu thắng, thích hơn thua để gây căng thẳng bất hoà ...
- Hiện nay, đài truyền hình đang phát chương trình ‘Bảy sắc cầu vồng’. Là một áp dụng rất thành công hình thức này. Chúng ta có thể theo dõi và tham khảo.
V. TRÒ CHƠI GIÁO LÝ
Đối với trẻ em, trò chơi mang tính giáo dục rất cao và phong phú. Hơn nữa, trong khi chơi, trẻ biểu lộ cung cách sống, con người thật và cả tình trạng sức khỏe nữa.
1- Phân loại trò chơi
- Dựa theo yêu cầu (trò chơi sáng tạo, vận động, thể thao ...)
- Dựa theo động tác (trò chơi luyện kỹ năng nghe, quan sát, trí nhớ, sự khéo léo tay chân...)
- Dựa trên sự vận động (trò chơi vận động : động - tĩnh...)
- Dựa trên số lượng người chơi (trò chơi cá nhân - đồng đội).
- Dựa vào nơi chốn (trò chơi ngoài trời - trong phòng ...)
2- Lựa chọn trò chơi
Đối với Giáo Lý, ý nghĩa và tác dụng của trò chơi phải đáp ứng được yêu cầu của việc dạy Giáo Lý. Bởi đó khi lựa chọn trò chơi Giáo Lý phải lưu ý vài đặc điểm sau để lựa chọn :
- Tùy hoàn cảnh :
+ Nơi chốn : Trong lớp hay ngoài trời.
+ Số người : Lớp đông hay ít.
+ Độ tuổi : Lớp lớn hay lớp nhỏ.
+ Phái tính : Nam hay nữ (hoặc tất cả).
- Tùy theo tác dụng của trò chơi :
+ Vui, linh hoạt nhưng đừng quá nhiều sức lực (kẻo học viên bị mệt).
+ Chọn những trò chơi mà tất cả lớp cùng tham gia.
+ Chọn những trò chơi gần gũi hoặc minh họa cho đề tài Giáo Lý (nói về tình bác ái nên chơi trò tải thương, cứu thương thay vì chơi trò bắn súng...)
- Tùy theo yêu cầu của việc giảng dạy Giáo Lý.
+ Minh họa cho bài Giáo Lý.
+ Xả hơi giữa hai buổi học, hội.
+ Rèn luyện kỹ năng nhân bản.
3- Hướng dẫn trò chơi (quản trò)
Sự thành công hay thất bại của một trò chơi tùy thộc rất nhiều vào nghệ thuật trình bày và cách tổ chức của quản trò.
-Trình bài trò chơi.
+ Chọn và nắm vững trò chơi.
+ Chuẩn bị điạ điểm và vật dụng (nếu có).
+ Giới thiệu, giải thích chậm rãi và rõ ràng cho các em hiểu cách chơi, diễn tiến và luật lệ.
- Hướng dẫn trò chơi :
+ Phải công bằng, đề cao kỷ luật và tôn trọng tập thể cũng như trọng tài (nhất là người bị phạt).
+ Khích lệ những người còn e ngại, chưa nhập cuộc.
+ Kết thúc trò chơi lúc đang hứng khởi nhất.
VI. DIỄN KỊCH - HOẠT CẢNH
So với một bài Giáo Lý thì hình thức này giáo dục bằng thị giác hơn là thích giác. Nó làm sống lại những gì đã học được nhờ đó nhớ lâu hơn và hiểu rõ hơn.
1- Vài hình thức
Tùy theo khả năng và nơi chốn mà ta có thể sử dụng các hình thức khác nhau :
- Giáo Lý Viên viết kịch bản rồi tập dợt cho các học viên ; hoặc các học viên tự làm lấy, Giáo Lý Viên duyệt trước khi diễn.
- Các diễn viên có thể đối thoại trực tiếp bằng lời nói khác nhau (kịch nói) hay chỉ làm những cử điệu dễ hiểu (kịch câm) hay chỉ ra điệu bộ, người khác ở trong hậu trường đọc lời đối thoại (hoạt cảnh).
- Hoạt cảnh hoạt diễn kịch bằng bóng (buổi tối) : Các nhân vật đứng bên trong màn, hình ảnh và cử điệu nổi lên trên màn nhờ một bóng đèn pha. Người xem chỉ thấy bóng các nhân vật.
2- Vài hình thức
- Các diễn viên đóng các vai Chúa, Đức Mẹ, các Thánh ... nên nghiêm trang tề chỉnh, không nên giễu cợt làm mất sự tôn kính.
- Các buổi diễn này thường ồn ào, gây mất trật tự, cần phải có sự chuẩn bị tập dợt trước.
- Một kinh nghiệm riêng : Các em được chọn làm diễn viên rất thích được hóa trang. Giáo Lý Viên nên nhắc nhở và kiểm tra các em, đừng quan trọng quá nó, chỉ nên đơn giản thôi (nếu không tự các em hoá trang sẽ rất kỳ dị, cổ quái, không xứng hợp).
Chương ba
TRƯỚC VÀ SAU MỘT BÀI GIÁO LÝ
I. TRƯỚC MỘT BÀI GIÁO LÝ
Dạy Giáo Lý cũng không phải là một công việc không đi ngoài quy luật chung : Muốn gặt hái được thành quả (hoặc ít ra là để hạn chế bớt sự thất bại) cho công việc gì, cần phải có sự chuẩn bị. Kết quả và chất lượng của công việc phụ thuộc rất nhiều vào thời gian chuẩn bị này.
1- Chuẩn bị xa
a/. Tìm hiểu thính giả :
‘Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng’ (Tôn Tử).
Trước khi dạy Giáo Lý, Giáo Lý Viên cũng nên tìm hiểu kỹ lưỡng các học viên của mình về mọi phương diện nhưng cần lưu ý nhất các mặt : môi trường sống, nền giáo dục, lứa tuổi và tâm lý của lứa tuổi ... Sẽ tốt hơn biết mấy, nếu sự hiểu biết đó đi sâu đến từng học viên một.
b/. Cầu nguyện :
‘Không có Thầy chúng con không làm gì được’ (Jn 15.5 )
Cầu nguyện cho các em học viên của mình hiều và thực hành được điều mình giảng và cầu nguyện cho chính mình nữa để mình giảng cho các em đúng những điều mà Thiên Chúa muốn nói với các em.
2- Phác họa chương trình chung
Mỗi bài Giáo Lý là một phần của chương trình chung kéo dài có thể từ ba tháng đến một năm. Về phía Giáo Lý Viên cũng cần biết rằng mình sẽ đưa các em tới đâu ; còn các học viên, càng lớn thì đòi hỏi về mặt tri thức càng cao : Các em cũng muốn biết sẽ học hỏi những điều gì, những gì tiếp theo sẽ được đề cập tới và liên quan thế nào với nhau...
Hiện nay, Giáo Lý Viên thường ít làm việc này vì chương trình chung đã được phác họa từ trước trong các giáo trình in sẵn. Tuy nhiên, cũng nên nghiên cứu kỹ lưỡng trước để hiểu thấu được ý của người soạn chương trình (mục đích, sự tiến triển của chương trình...). Nhưng một khi phải đụng đến nó để khỏi lúng túng, chúng ta nên phác họa theo một trong hai hướng như sau (tùy theo những gì mà chúng ta biết được ở phần tìm hiểu thính giả ở trên) :
a/. Chương trình chung được phác họa dựa trên nhu cầu luận lý trừu tượng :
- Hướng này thường sử dụng phương pháp diễn dịch của thần học, chỉ thỏa mãn những đòi hỏi của lý trí chứ không lay động tâm hồn, chỉ phù hợp với các em lớn, người lớn hoặc những ai quen suy luận.
- Thí dụ : Nói về Giáo Hội, theo hướng này, chúng ta sẽ phác họa như sau :
* Mầu nhiệm Giáo Hội (thành lập - bản chất - đặc tính ...)
* Sứ mạng của Giáo Hội (truyền giảng - thánh hoá - quản trị ...)
b/. Chương trình chung được phác họa dựa trên nhu cầu tâm lý cụ thể :
- Hướng này cách trình bày tuy không chặt chẽ bằng hướng thứ nhất nhưng thực tế và phù hợp với tâm lý thanh thiếu niên muốn biết vấn đề liên quan đến mình như thế nào ... Cách trình bày này thiên về nghệ thuật hơn kỹ thuật.
- Thí dụ : Cũng với đề tài Giáo Hội, chúng ta sẽ phát họa như sau :
* Chúng ta (và mọi người) nghĩ gì về Giáo Hội, có đúng với ý định của Thiên Chúa không, thật sự Giáo Hội là gì ? ...
* Chúng ta tham dự vào Giáo Hội như thế nào, làm gì trong Giáo Hội, giúp ích gì cho Giáo Hội ? ...
* Giáo Hội giúp ích gì cho chúng ta, cho con người, cho xã hội, cho thế giới ?...
* Các thành phần trong Giáo Hội khác nhau thế nào, có cần đến nhau không, có bổ túc cho nhau không ?...
* Những người chưa gia nhập Giáo Hội thì sao ?...
* Tại sao Công đồng Vatican II đòi phải ‘trẻ hóa và canh tân Giáo Hội’ ?...
3- Chuẩn bị gần
a/. Soạn bài Giáo Lý :
- Cần phải nắm vững ba yếu tố sau đây để soạn một bài Giáo Lý :
* Chủ đề của bài Giáo Lý.
* Nội dung của bài Giáo Lý.
* Tâm tình của học viên đối với nội dung của bài Giáo Lý.
+ Chủ đề của bài Giáo Lý : Điều này rất dễ xác định vì thông thường nằm ở tựa bài. Tuy nhiên cũng nên nhìn nó trong toàn bộ chương trình chứ đừng tách độc lập nó ra khỏi chương trình chung.
+ Nội dung của bài Giáo Lý : Đã xác định được chủ đề của bài rồi nhưng còn phải xác định cả nội dung của nó nữa. (Thí dụ : Chủ đề của bài Giáo Lý là : Bí Tích Thánh thể, nhưng khi trình bày sẽ có nhiều lối nhìn và góc cạnh khác nhau : Lương thực cho linh hồn, phương thế hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em...)
+ Cuối cùng chúng ta lưu ý đến tâm tình của học viên sẽ có đối với nội dung đó (Thí dụ : các em sẽ có tâm tình biết ơn Chúa, cảm tạ Chúa và yêu mến Chúa vì đã dùng Thịt và Máu để làm của nuôi linh hồn ta ...).
- Khi nắm vững ba yếu tố trên, Giáo Lý Viên cứ theo hướng đó sẽ rất dễ dàng để soạn ra một dàn bài Giáo Lý.
- Có thể soạn ra giấy và viết thành văn, nhất là những Giáo Lý Viên mới (dù rằng không cần thiết phải ‘đọc’ đúng những lời mình đã viết). Sẽ có những lợi điểm :
* Không ứng khẩu thiếu mạch lạc hay thiếu nội dung.
* Khi viết ra giấy, một lần nữa bài soạn được sàng lọc kỹ lưỡng, nhờ đó bài Giáo Lý sẽ gọn gàng, súc tích.
* Không bị ngắt quãng nữa chừng (vì không liên kết được các ý với nhau), dễ thích ứng với học viên và có những minh hoạ dí dỏm ...
b/. Chuẩn bị giáo cụ :
- Giáo cụ là những dụng cụ hỗ trợ hay minh hoạ cho một bài Giáo Lý như : bản đồ, tranh ảnh, phấn màu ... thậm chí cả cessette, vidéo hay những vật dụng khác có liên quan trực tiếp đến nội dung Giáo Lý.
- Giáo cụ có thể do Giáo Lý Viên tự tìm kiếm, sáng tạo làm lấy hoặc có thể do các em học viên.
- Nếu biết khai thác tối đa tác dụng của Giáo Lý rất nhiều vì đã sử dụng đến hai phương pháp đồng thời : thính và thị. Ngoài ra, về khía cạnh tâm lý các em học viên khi nhìn thấy các giáo cụ luôn thay đổi sẽ có một cảm giác bài Giáo Lý luôn mới mẻ và hấp dẫn (Tâm lý này cũng sẽ có, khi ta luôn làm vệ sinh phòng lớp, bàn ghế ngăn nắp gọn gàng và nhất là trang trí lớp học).
c/. Cầu nguyện :
Điều không thể thiếu nữa là vài phút để dâng cho Chúa giờ Giáo Lý mà chúng ta sắp dạy ngay khi chúng ta đang trên đường đi đến lớp. Đây cũng là bước quan trọng không thể bỏ qua trong việc chuẩn bị cho một giờ Giáo Lý.
II. SAU MỘT BÀI GIÁO LÝ
a/. Sau khi đã tiễn các học viên của mình ra khỏi lớp :
Một việc làm không hề dư thừa nữa là tạ ơn Chúa về giờ Giáo Lý đã qua ...
b/. Nhận xét - đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm :
Điều này thật hệ trọng không những chỉ đối với các Giáo Lý Viên mới mà thôi ...
Trường hợp giờ Giáo Lý vừa rồi chỉ một mình ta phụ trách thì hơi khó một chút, nhưng nếu có hai ba Giáo Lý Viên thì hiệu quả sẽ rất cao vì những nhận xét sẽ phong phú hơn, sự lượng giá sẽ chính xác hơn và những kinh nghiệm được rút ra sẽ quí báu hơn ... (Do đó rất cần thiết để các Giáo Lý Viên ngồi lại với nhau để đúc kết sau giờ Giáo Lý).
- Nhận xét :
+ Về Giáo Lý Viên : Nội dung có phù hợp với chủ đề, cách trình bày hay chưa, ngôn từ tác phong, những phần phụ (sinh hoạt chép bài... ) có liên kết hay minh họa cho chủ đề ? ...
+ Về phía học viên : Kỷ luật, chú ý tham gia một cách linh động, hiểu bài, tâm tình các em ..., các học viên đặc biệt ...
+ Về hoàn cảnh : Bầu khí tĩnh lặng hay sôi động, có mang một chút màu sắc tôn giáo, môi trường bên ngoài có phù hợp, địa điểm có thích hợp ? ...
- Rút kinh nghiệm : Đối với những nhận xét tích cực, những điều hay điểm tốt ... ta nên duy trì và phát huy như thế nào ?. Ngược lại, với những tiêu cực, ta nên tránh để không xảy ra hay bài trừ bằng cách nào ? ...
- Lượng giá : Căn cứ vào bầu khí tôn giáo trong lớp học và thái độ đáp ứng của các em, cả đời sống thiêng liêng lẫn đời sống nhân bản.
c/. Đôi điều tâm niệm :
- Việc biến đổi, hoán cải tâm hồn mọt con người là công việc của Chúa Thánh Thần, còn Giáo Lý Viên chỉ là một phát ngôn viên, là công cụ.
- Vì là dụng cụ nên Giáo Lý Viên phải luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, đựơc mài dũa sắc bén và hữu dụng để khi cần, bất kỳ khi nào và ở đâu cũng điều có thể đáp: ‘Này con đây, xin hãy sai con!’ (Is 6.8)
- Khi công việc có vẻ tiến triển rõ rệt, nên nhớ thành quả đó là của Chúa, đừng tự phụ kiêu căng. - ‘Tôi trồng, Apollo tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho cây mọc lên’ (1 Cor 3.6).
- Còn khi công việc trì trệ, có vẻ không đạt kết quả như ý thì cũng đừng nản lòng một khi đã làm hết sức mình. Hãy nhớ lời Cha Rey Mermet : ‘Lạy Chúa, được cộng tác với Chúa, con thật hãnh diện, con sẽ cố gắng hết sức mình... thành công thì Chúa hưởng, thất bại thì Chúa chịu, phần con chỉ xin được hưởng ơn cứu độ’.
Chương bốn
GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Đây là một mảng lớn trong việc dạy Giáo Lý thường hay bị các Giáo Lý Viên ở các họ đạo bỏ ngỏ vì nhiều lý do : Ngăn trở thời gian, địa điểm, tuổi tác hay vì thiếu kinh nghiệm và nhiều ngăn trở khách quan khác...
I. NHỮNG KHÓ KHĂN
1- Tình trạng đa tạp
- Về hoàn cảnh : Mỗi dự tòng đều khác nhau về trình độ văn hoá, vị trí xã hội, quan điểm - kiến thức về tôn giáo, thời gian dự lớp và môi trường sống nói chung.
- Về lý do tòng giáo : Mỗi dự tòng được nghe tiếng Chúa gọi và tìm đến với Giáo Hội bằng một con đường riêng với những khó khăn và thuận lợi riêng.
2- Biệt vị tính
- Với tình trạng đa tạp như trên khó lòng cho Giáo Lý Viên có thể dạy chung từng nhóm dự tòng với một khuôn mẫu nhất định được.
- Ngoài ra, dạy Giáo Lý cho dự tòng không phải là chỉ đơn thuần dạy ‘lẽ đạo’ như nhiều người lầm tưởng mà phải là một công cuộc giáo dục thiêng liêng toàn diện.
3- Trở ngại về ngôn ngữ
- Về phía người dự tòng : Với họ những từ ngữ hay kiểu nói rất thông dụng của người tín hữu (như : cứu rỗi, ân sủng, Nước Thiên Chúa . . .) nhất nhất đều lạ lẫm và không gợi lên được một âm hưởng gì. Ngược lại, vì còn đang do dự, xúc động, dò dẫm... nên họ cũng rất khó khăn khi diễn tả một cách rõ ràng những cảm nghĩ của họ.
-Về phía Giáo Lý Viên : cũng thật là khó khăn khi phải tìm từ ngữ dễ hiểu và tương đương khác để nói về một khái niệm tôn giáo hoặc phải giải thích cặn kẽ những từ ngữ tưởng chừng hết sức quen thuộc.
II. CÔNG VIỆC CỦA GIÁO LÝ VIÊN
Cuộc tiếp xúc lần đầu rất quan trọng vì :
- Qua Giáo Lý Viên, người dự tòng nầy chính thức gặp gỡ Giáo Hội lần đầu tiên (cho dù trước đó họ đã biết ít nhiều).
- Tâm tư của người dự tòng lúc đó rất phức tạp đa nghi nhưng hiếu kỳ, e ngại nhưng hy vọng ... Tất cả trộn lẫn với nhau và ấn tượng của buổi tiếp xúc ban đầu sẽ còn mãi nơi họ.
- Do vậy, trong cuộc gặp gỡ lần đầu này, Giáo Lý Viên không nên xã giao một các gượng ép hay giả tạo nhưng nên tự nhiên và cởi mở để người dự tòng có thể cảm thấy thoải mái nhận ra ngay rằng : Giáo Lý Viên này là người đáng tin cậy.
- Giáo Lý Viên cũng nên tỏ ra chín chắn, không nên coi thường những lo lắng, băn khoăn của người đến với mình.
2- Thanh luyện lý do tòng giáo
a/. Tìm hiểu lý do tòng giáo :
- Có nhiều lý do.
+ Khao khát chân lý (trí thức).
+ Làm lại cuộc đời (luân lý).
+ Vẽ đẹp của tôn giáo (nghệ thuật).
+ Đi tìm lý tưởng .
+ Gương bác ái và phục vụ của các Kytô Hữu.
+ Xin ơn và được như ý.
+ Kết hôn.
- Không phải mỗi dự tòng có ý định tòng giáo chỉ vì một lý do duy nhất, có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có một lý do chủ chốt làm khởi điểm hoặc kéo theo.
- Tìm hiểu lý do tòng giáo là việc cần thiết và ít lợi cho cả hai :
+ Phía Giáo Lý Viên hiểu rõ hơn dự tòng để dễ hướng dẫn.
+ Phía dự tòng có dịp suy nghĩ lại để biết, ý thức và xác tín rõ hơn sự lựa chọn của mình và con đường mình muốn theo.
- Nên lưu ý : Việc tìm hiểu này nên tế nhị và kín đáo và có thể sẽ mất nhiều thời gian.
b/. Thanh luyện lý do tòng giáo :
Rất có thể ban đầu dự tòng có ý định tòng giáo vì một lý do rất phụ thuộc hoặc chưa hoàn toàn trong sáng.
- Một mặt Giáo Lý Viên phải gây ý thức, thanh luyện và gợi lên những lý do chính yếu, khẩn thiết và đơn thành hơn.
- Mặt khác cũng chớ nên coi thường những lý do đó, vì Thiên Chúa có thể dùng những việc nhỏ để làm khởi điểm dẫn tới việc to lớn hơn.
3- Huấn luyện toàn diện
Nơi người dự tòng, Giáo Hội muốn thực hiện một cuộc đổi đời toàn diện để gia nhập Nước Thiên Chúa.
Công đồng Vatican II nêu rõ : Thời kỳ Giáo Lý dự tòng phải đáp ứng ba mục tiêu :
+ Dạy chân lý đức tin (tín lý).
+ Trình bày giới luật (luân lý).
+ Huấn luyện đời sống, tập sống đời Kytô hữu (sem AG - Sắc lệnh Truyền giáo số 14).
Chúng ta có thể chia ra thành hai giai đoạn : Chuẩn bị tâm hồn và dạy Giáo Lý (Pré-Catéchèse et Catéchèse).
a/. Chuẩn bị tâm hồn :
Trong giai đoạn đầu, Giáo Lý Viên chưa thể đề cập trực tiếp đến mầu nhiệm Kytô giáo được, nhưng phải đặt nền tảng trước bằng cách sử dụng những điểm tựa tự nhiên.
- Trao đổi với dự tòng về những kinh nghiệm sống, những vấn đề tổng quát liên quan đến con người (như : hạnh phúc và đau khổ, thành công và thất bại, sự sống và cái chết ...). Đào sâu và phân tích kỹ sẽ đụng phải tôn giáo và bắt gặp được Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đó là cách gián tiếp tìm hiểu tôn giáo.
- Người dự tòng thế nào cũng có nhiều thắc mắc riêng tư, nhất là về tôn giáo ... Đây chính là lúc giải quyết dứt điểm và thỏa đáng những ưu tư đó ...
Như vậy, giai đoạn này có tính cơ hội : dùng những ưu tư và kinh nghiệm sống của chính dự tòng làm khởi điểm cho những suy tư và trao đổi.
b/. Dạy Giáo Lý :
Khi các vấn nạn đã được giải quyết (con đường đã mở) cần chuyển sang giai đoạn dạy Giáo Lý.
- Trình bày chân lý đức tin một cách có hệ thống và mạch lạc, tức là các chân lý phải được sắp đặt sao cho ăn khớp với nhau và theo thứ tự trước sau.
- Những gì đã được diễn giải trong giai đoạn chuẩn bị cũng được sát nhập vào hệ thống nầy.
- Một lưu ý : Khi trình bày mỗi chân lý vẫn phải dựa vào kinh nghiệm cụ thể của dự tòng mà giảng giải.
c/. Cộng đoàn dự tòng :
Bên cạnh giai đoạn dạy Giáo Lý, cũng nên tập cho các dự tòng làm quen với phụng vụ, rèn luyện tinh thần mỗi tông đồ, tập sống đời Kytô hữu, cầu nguyện ... để mỗi dự tòng hòa mình vào đời sống Giáo Hội và được nâng đỡ hữu hiệu bằng cách tổ chức công đoàn dự tòng.
- Cộng đoàn này gồm : Các dự tòng đang học đạo, linh mục hướng dẫn, Giáo Lý Viên, những người đỡ đầu, những tín hữu nhiệt thành và cởi mở ... và sẽ tốt hơn nữa nếu có cả các tân tòng.
- Cộng đoàn này có một số sinh hoạt chung :
+ Cầu nguyện hay suy niệm, suy tôn lời Chúa.
+ Học hỏi chung về một vấn đề.
+ Bàn cách làm việc tông đồ hữu ích.
+ Trao đổi những kinh nghiệm, thắc mắc hay cảm nghĩ với linh mục, Giáo Lý Viên hay người đỡ đầu.
+ Gặp gỡ thân mật (tại một gia đình).
@ Có hai kinh nghiệm riêng :
* Các dự tòng dễ hiểu nhau, dễ trao đổi với nhau vì cùng một hoàn cảnh, nhưng đồng thời cũng rất khác nhau về tính tình, kinh nghiệm, giáo dục ... nên các cuộc trao đổi giữa cộng đoàn này rất lý thú, phong phú, bổ ích và tạo nên một tình bạn chân thành.
* Phải hết sức cẩn thận, nếu không có thể gây ra hiểu lầm (nhất là khi các dự tòng đã trở thành tân tòng) : Một họ đạo có hai ‘Giáo Hội’: Giáo Hội đạo gốc và Giáo Hội đạo mới !.
Cũng cần lưu ý : Không phải khi các dự tòng đã được gia nhập Giáo Hội bằng các Bí Tích khai tâm là Giáo Lý Viên đã ‘hết nhiệm vụ’, ‘hết trách nhiệm’.
III. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Để soạn Giáo Trình cho dự tòng, người ta thường sử dụng một trong bốn lược đồ :
+ Lược đồ Lịch sử.
+ Lược đồ Phúc âm.
+ Lược đồ Phụng vụ.
+ Lược đồ Kinh Tin Kính.
Bốn lược đồ này chỉ khác nhau về bố cục và cách trình bày, nhưng nội dung chỉ là một.
1- Lược đồ lịch sử
a/. Sơ lược :
Các chân lý đức tin được trình bày theo thứ tự thời gian :
- Thiên Chúa tạo dựng con người và muôn vật để được hạnh phúc.
- Con người không đi theo đường lối của Thiên Chúa (Tội).
- Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng hứa cứu độ con người.
- Thiên Chúa chuẩn bị ơn cứu độ (sơ lược về lịch sử Israel).
- Thiên Chúa sai con mình xuống thế thực hiện ơn cứu độ con người (cuộc đời, giáo huấn, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu để cứu độ).
- Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu (nhiệm vụ và hoạt động của Giáo Hội, phụng vụ và Bí Tích).
- Đời sống Kytô hữu (Tin-cậy-mến, Bát phúc, Cầu nguyện).
- Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang đưa ta vào Thiên quốc.
b/. Ưu và khuyết điểm :
- Lược đồ này thích hợp cho người trí thức, thích những ý tưởng minh bạch, mạch lạc, suy luận căn cứ trên những sự kiện cụ thể; Ngược lai, người không quen quay lại với quá khứ hoặc không quen suy luận sẽ cảm thấy nhàm chán và xa lạ.
- Phần chuẩn bị ơn cứu độ (Cựu Ước) dài và phức tạp, để lấn át phần chính yếu là phần thực hiện ơn cứu độ (Tân Ước).
- Những biến cố lịch sử dồn dập và chồng chất dễ che khuất đi ý nghĩa của chúng.
c/. Cách dùng :
- Trong phần Cựu Ước nên tóm gọn, bỏ qua các sự kiện phụ thuộc và chi tiết, chỉ giữ lại vài biến cố chính yếu; Còn phần Tân Ước phải dài hơn và đầy đủ hơn.
- Khi nói về các biến cố trong Cựu Ước, nên trình bày rõ những biến cố đó được thực hiện trong Tân Ước như thế nào.
- Ngay từ đầu phải cho thấy Chúa Giêsu là Đấng thực hiện ơn cứu độ.
2- Lược đồ Phúc âm
a/. Sơ lược :
Bắt đầu từ chính Chúa Giêsu, con người và cuộc đời của Ngài, rồi trở ngược lại Cựu Ước để trình bày những gì xảy ra và báo trước về Ngài; Sau đó chuyển qua Giáo Hội ngày nay tiếp tục như thế nào.
b/. Ưu và khuyết điểm :
- Lược đồ này không mạch lạc và bao quát nhưng hấp dẫn và cụ thể. Các sách Tin Mừng là khởi điểm thuận tiện, đặt người dự tòng trước một nhân vật sống động.
- Lược đồ này rất thích hợp cho người chất phác, đơn sơ.
c/. Cách dùng :
- Chọn một sách Tin Mừng làm đầu bài rồi bổ túc bằng các sách Tin Mừng khác (không cần phải đi từng trang hay từng chương sách, chỉ cần lấy những đoạn chính, tóm tắt và giảng dạy những đoạn khó hiểu).
- Nên gom thành từng mục những trình bày về Chúa Giêsu (Ngài là ai? Ngài sống như thế nào ? Giáo huấn của Ngài về Thiên Chúa và về con người ? Thái độ của Ngài đi với Chúa Cha, với mọi người và với từng hạng người ? Ngài thực hiện công cuộc cứu độ bằng lời giảng, cái chết Phục sinh, ban Thánh Thần ? ...)
- Có thể bổ túc thêm bằng sách Công Vụ Tông Đồ và các Thư.
- Lược đồ này đòi phải soạn bài kỹ lưỡng hơn.
3- Lược đồ Phụng vụ
a/. Sơ lược :
Trình bày nội dung Giáo Lý theo chu trình các lễ trong năm Phụng vụ.
b/. Ưu và khuyết điểm :
- Lược đồ này rất cụ thể và cho thấy mối tương quan mật thiết giữa công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu và sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng cũng có bất lợi là không thể áp dụng cho các dự tòng tham dự lớp Giáo Lý vào đầu năm Phụng vụ hoặc không có giờ tham dự phụng vụ cũng như tham dự phụng vụ không đều đặn.
- Ngoài ra, một bất lợi nữa là có nhiều mầu nhiệm được phụng vụ cử hành dồn dập trong khoảng thời gian ngắn, do đó chương trình Giáo Lý không theo kịp và mất cân đối.
c/. Cách dùng :
- Đối với thánh lễ, ban đầu chỉ nên chú trọng đến các bài đọc, các lời nguyện, rồi dần dần mới đi vào ý nghĩa thánh lễ.
- Đối với các nghi lễ, nên quan tâm đến ý nghĩa của mầu nhiệm và phụng vụ mừng kính thay vì chi tiết lễ nghi.
- Tạm thời có thể phân phối chương trình Giáo Lý theo năm phụng vụ như sau :
+ Mùa vọng + Giáng sinh : Cựu Ước.
+ Lễ Hiển linh đến Phục sinh : Tân Ước.
+ Sau hiện xuống : Giáo Hội và đời Kytô hữu.
4- Lược đồ Kinh Tin Kính
Dầu theo lược đồ nào, dự tòng cũng phải thuộc Kinh Tin Kính, bởi kinh này bao gồm đầy đủ những chân lý tôn giáo nền tảng của một đức tin tông truyền ... Những điều chính yếu của các lược đồ trên cũng được gồm tóm trong kinh này.
- Với lược đồ này, sử dụng phương pháp diễn dịch thì phù hợp hơn là quy nạp.
- Trong lược đồ này sẽ vấp phải một vài từ ngữ chuyên môn (như ‘Nhập thể’ ‘Đồng bản tính’ ...) Giáo Lý Viên phải tìm những kiểu nói dễ hiểu và cụ thể để giải thích.
Chương năm
TÂM LÝ CHUNG CỦA CÁC HỌC VIÊN GIÁO LÝ
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý con người, nên chúng ta chỉ lướt qua để đi thẳng đến điều cần xem kỹ là : Tâm lý chung nơi các học viên của chúng ta theo từng lứa tuổi (và đặc biệt quan tâm đến lứa tuổi thanh thiếu niên hơn).
I. TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ TỪ 3-6 TUỔI
# Đây là lứa tuổi đơn sơ, hồn nhiên và dễ thương nhất, nhưng dạy Giáo Lý cho lứa tuổi này không phải là chuyện dễ.
1- Đây là lứa tuổi mà thế giới bị thu gọn tối đa trong một cặp “mẹ-con, con-mẹ” (do đó ta thấy phần đông là các cô dạy Mẫu giáo). Lứa tuổi này là lứa tuổi phó thác, tin tưởng hoàn toàn nơi cha mẹ. ( Vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã nói : “Nước Trời dành cho những ai giống như chúng ” Mc 10.14 - giống ở việc phó thác và tin tưởng tuyệt đối.)
2- Lứa tuổi này sống trong sự thần tiên huyền diệu, trong một thế giới mà ý muốn là toàn năng. Thích làm trò vui và pha trò duyên dáng, rất đỗi trẻ con.
3- Chính vì sự thần tiên đó mà lứa tuổi này muốn là trung tâm điểm của vũ trụ muốn người khác chú ý, vì vậy rất độc tài ; hay ganh tỵ và hờn mát nếu không thỏa mãn tự ái.
4- Lứa tuổi này hay bắt chước, nhất là bắt chước cha mẹ, (bắt chước cả lời ăn tiếng nói lẫn hành vi cử chỉ) đồng thời rất hay đặt câu hỏi ‘tại sao’.
# Tóm lại : Lứa tuổi này như một tờ giấy trắng, rất dễ ghi lên đó những gì ta muốn; tuy nhiên, phải hết sức thận trọng : những lời nói hay cử chỉ của ta (dù là vô tình) đều được trẻ con copy nhanh chóng.
II. TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ TỪ 7-8 TUỔI
# Đã bắt đầu vào ‘tuổi khôn’ mà theo qui định của Giáo hội, trẻ đã có thể nhận lãnh các Bí tích Giải tội, Thánh Thể, Thêm sức.
1- Lứa tuổi này trẻ đã nhanh chóng phân biệt được chuyện thần tiên và chuyện thật cũng như phân biệt được điều thiện và điều ác.
2- Lứa tuổi đã biết suy nghĩ, chín chắn hơn một chút dù còn rất ham vui. Thích tìm hiểu và đã biết so sánh (so sánh các ý kiến với nhau, so sánh những gì đã học được với thực tế, so sánh lời nói với việc làm của người khác).
3- Lứa tuổi đã bắt đầu đi học nên tính cộng đoàn, đồng đội, bạn bè cũng bắt đầu phát triển. Dễ sống hòa đồng nhưng cũng muốn biết người khác nghĩ gì về mình.
4- Lứa tuổi thích thưởng thức các vẻ đẹp thiên nhiên, biết hướng nội. Các cảm quan về tôn giáo đã trỗi dậy nên nhạy cảm với những vấn đề thiêng liêng, mầu nhiệm.
# Tóm lại : Ở lứa tuổi này, tâm tình tôn giáo đã chớm nở. Những gì thuộc về đức tin mà trẻ học được hầu như sẽ được nó mang theo rất lâu sau này. Đây là một giai đoạn rất quan trọng đối với các Giáo Lý Viên (nhất là các Giáo Lý Viên phụ trách các lớp xưng tội rước lễ vỡ lòng) trong việc dạy cho các em tôn thờ và tin yêu Chúa Giêsu Thánh Thể.
III. TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ TỪ 10-12 TUỔI
# Đây là lứa tuổi mà chúng ta dễ nhận ra tâm tính, tánh tình của chúng nhất.
1- Lứa tuổi này thường hướng ngoại, thích hoạt động và khám phá, do đó dễ bị ngoại cảnh lôi cuốn.
2- Lứa tuổi chú trọng đến chuyện công bằng nên thiên về luật lệ (khi chơi thì chú trọng luật chơi, khi học thì để ý đến tính toán, văn phạm...). Vì vậy trẻ đã bỏ hẳn những chuyện thần tiên nhưng đồng thời lại ưa thích chuyện phiêu lưu mạo hiểm.
3- Lứa tuổi này trí nhớ đã phát triển mạnh bên cạnh những vấn đề thuộc phái tính. Tuy nhiên, chúng thường đánh giá nhau theo những tiêu chuẩn phụ thuộc bên ngoài (con trai : học giỏi, khỏe mạnh, chơi hay, ... con gái : tóc dài, mắt to ...).
4- Lứa tuổi đã có bạn thân, thường tụ tập thành nhóm chơi với nhau và rất dễ bị ảnh hưởng nhau. Thích làm nổi (dù là tiêu cực) để khẳng định cái tôi của mình trong nhóm hoặc trong một cộng đoàn.
# Tóm lại : Phải hết sức tránh để trẻ bị bất mãn, vì lứa tuổi này là thế. Các cử điệu không còn phù hợp nữa (đôi khi còn là điều cấm kỵ đối với một số em có tính mắc cỡ). Cần hướng dẫn trẻ đi vào chiều sâu hơn là hình thức bên ngoài để các em có thể tự mình khám phá ra Thiên Chúa.
IV. TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 13-15 TUỔI
# Đây là một lứa tuổi chuyển tiếp giữa trẻ con và người lớn. Ưa kể chuyện mới xảy ra hôm qua bằng câu mở đầu : ‘Hồi đó mình còn nhỏ...’ Lứa tuổi này nổi tiếng là khó dạy và vô kỷ luật, đòi hỏi các nhà giáo dục phải hết mực lạc quan, khéo léo và thạo tâm lý.
1- Lứa tuổi này vì không còn là trẻ nhỏ, nhưng lại chưa phải là người lớn ; Mặt khác, sự phát triển mau chóng về mặt sinh lý làm cho trẻ mất quân bình về tâm lý. Bên cạnh đó, ý thức về tự do cũng chớm nở nhưng lại còn vụng về nên thường tự vệ, bào chữa ..., cố vươn lên để chứng tỏ mình khác với trẻ nhỏ nên sinh ra phê phán, chống đối (có khi chống đối công khai và rất có hệ thống).
2- Là lứa tuổi dậy thì nên phái tính phát triển mạnh, tâm lý hay thay đổi (có khi là một đứa trẻ dễ bảo dễ thương, nhưng có khi làm ra vẻ người lớn bằng cách bướng bỉnh, bất tuân, chống đối ... ) Trẻ nam thì hướng ngoại : thích lao động sáng tạo, rèn thể lực và ý chí, tập tính can đảm ..., các em nữ thì lại hướng nội : Mộng mơ, tình cảm và hay làm dáng.
3- Lứa tuổi này thường sống với những ước mơ màu hồng và dám hy sinh quảng đại để biến những ước mơ đó thành hiện thực; nhưng lại cũng rất dễ nản lòng khi thấy thực tế khác xa với những gì mình mơ ước; ham thích nghệ thuật. Hay thần thánh hoá nên có những thần tượng, những siêu sao điện ảnh, ca nhạc, thể thao ..., vì vậy có thể ‘chết được’ nếu thần tượng của mình bị sụp đổ.
4- Lứa tuổi này cũng có những hoài bão, những lý tưởng cao cả; vì vậy cũng rất phù hợp để ươm trồng và phát triển ơn gọi (dù quan niệm về Thiên Chúa ở lứa tuổi này nhìn chung còn hời hợt và nông cạn).
# Tóm lại : Lứa tuổi này đòi giảng viên phải có một sự mạch lạc trong Giáo lý, đồng thời chính bản thân Giáo Lý Viên phải tỏ ra mình cũng đang theo đuổi một lý tưởng cao cả mới có thể khuyến khích được các em. Bên cạnh đó bớt nhấn mạnh đến kỷ luật, vâng lời ... Sẽ rất nguy hiểm cho lứa tuổi này nếu ở xứ đạo nào mà sau khi đã Thêm sức xong, không có chưng trình Giáo Lý tiếp theo hoặc không có hội đoàn, đoàn thể nào cho các em tham dự, tham gia.
V. TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 16-18 TUỔI
# Đây là lứa tuổi đã biết suy nghĩ, chín chắn, ham hiểu biết, tự chủ và lựa chọn. Do đó đức tin ở trẻ đã có ý thức hơn; Tuy nhiên cũng vì vậy mà trẻ gặp khó khăn thường xuyên hơn - có khi rất trầm trọng - trong lãnh vực đức tin.
1- Lứa tuổi này thường hay đặt vấn đề và chỉ thỏa mãn khi nào được giải đáp thật hợp lý và khúc chiết. Những gì mà trẻ ở tuổi này khám phá ra thì quan trọng hơn những gì mà chúng được học, bởi vậy ưa phê phán người khác, nhưng sự phê phán đó lại bị tình cảm chi phối.
2- Lứa tuổi này hay tuyệt đối hoá vấn đề và hay tự tín. Hướng về tương lai hơn là chú ý đến thực tế thường nhật. Các thần tượng đã bớt đi tầm ảnh hưởng, nhưng nơi trẻ lại có óc thủ lãnh; đồng thời ở lứa tuổi này nam nữ đã bắt đầu biết tán tỉnh nhau để tiến tới tình yêu phái tính.
3- Ở lứa tuổi này trẻ vẫn rất kính phục những tấm gương sống tỏa sáng nhân đức, nhưng người có học vấn, tri thức lại rất quan trọng đối với trẻ. Chúng chỉ chịu phục những ai hơn hẳn chúng về tri thức. Hành động mà không nghĩ xa, không cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra cũng là đặc trưng của tâm lý trẻ ở tuổi này.
4- Lứa tuổi này đã có ý thức được cái ‘tôi’ của mình cùng với trách nhiệm và quyền lợi. Hiểu chính xác hơn về tội lỗi và luật lệ, nhất là luật luân lý tự nhiên. Nơi trẻ đã phát sinh những ước vọng hội nhập xã hội. Thích tìm hiểu quá khứ, lịch sử; nhưng lại chỉ nhìn những biến cố xảy ra bằng đôi mắt chủ quan ...
# Tóm lại : Ở lứa tuổi này, thích hợp nhất vẫn là những Giáo Lý Viên có được một tính cách tổng hợp: vừa là cha mẹ, vừa là thầy, vừa là một thủ lãnh nhưng đồng thời là một người bạn tri kỷ của trẻ. Các em rất cần được cảm thông, hiểu rõ tâm tình và nguyện vọng của chúng cũng như rất cần sự khích lệ, chia sẻ và nhất là gương sáng của ta. Tuy nhiên người làm gương phải kín đáo, tế nhị, xóa bỏ mình đi, nhất là tránh gây ảnh hưởng cá nhân hoặc biến mình thành thần tượng cho trẻ (x. Jn 3. 30 : ‘Đức Kytô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại’).
VI. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI THANH NIÊN (18-25 TUỔI)
# Lứa tuổi này dài hay ngắn rất khó xác định vì còn phải tùy thuộc vào hai yếu tố quyết định : sự trưởng thành nội giới của mỗi người (chủ quan) và điều kiện xã hội (khách quan).
1- Ở tuổi này, bằng con đường văn hoá, thanh niên đã ý thức được rằng sự hiểu biết của họ chỉ là tương đối; bằng sự va chạm thực tế, họ cũng chân nhận : những mộng mơ và thực tế thì khác xa nhau ... Do đó thanh niên đã dần dần sáng suốt hơn, thực tế và cũng giàu nghị lực hơn.
2- Thanh niên cũng là tuổi thường muốn tự khẳng định mình, thích tự lập, không ngại khó khăn, dễ thích ứng, nhưng có nhiều tham vọng. Họ muốn được người lớn tôn trọng và công nhận những giá trị mà họ mến chuộng. Họ thích chinh phục nhưng không hề muốn muốn bị chinh phục. Nơi họ, tình bạn không chỉ đơn thuần chỉ là qua lại nhà nhau chơi.
3- Cũng ở tuổi này, đa số thanh niên thường có những âu lo trên con đường hôn nhân và chức nghiệp. Cũng chính các hoạt động này đã choán hết chỗ đứng của các hoạt động tôn giáo, nên vì thế mà thanh niên là lứa tuổi hay bị võ đoán rằng rất ‘khô đạo’.
4- Nếu thành công trên đường hôn nhân và chức nghiệp thì người thanh niên kể như đã trưởng thành và đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong xã hội. Ngược lại, khi bị thất bại, thanh niên sẽ chán nản buông xuôi, rơi vào tuyệt vọng. Đây chính là một nguyên nhân chủ chất trong việc ‘khô đạo’ nơi đa số thanh niên.
# Tóm lại : Đây là lứa tuổi thật khó để đưa ra một đường lối thích hợp cho việc dạy Giáo Lý, nhất là trong việc tổ chức, tìm gặp . . . Vì lẽ đó mà nhiều nơi, cho tới nay, Giáo Lý thanh niên vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Một cách chung, thanh niên chỉ quan tâm đến những gì có liên quan thực sự và trực tiếp đến chính cá nhân họ và những vấn đề thuộc về họ mà thôi.
VII. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI TRUNG NIÊN (25-45 TUỔI)
# Đây là tuổi của lao động sáng tạo, biến đổi xã hội và thế giới. Tâm lý của tuổi này đã khá bình ổn vì hôn nhân, nghề nghiệp và nhiều mặt khác đã được định vị trong cuộc sống.
1- Ở tuổi này, những hoạt động không còn tự phát nữa nhưng theo phán đoán, suy nghĩ và lựa chọn chín chắn. Dù theo đuổi một lý tưởng, tuổi trung niên vẫn căn cứ vào thực tế mà phấn đấu và hành động. Tuổi này đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm về hạnh phúc và đau khổ, thất bại và thành công . . .
2- Lứa tuổi này, đôi khi vì hăng say hoạt động mà bỏ qua hoặc xao lãng yếu tố tinh thần; hay là chỉ căn cứ trên yếu tố hoạt động mà đánh giá con người. Cũng có khi vì hoạt động trên nhiều lĩnh vực nên khó dung hoà được những đòi hỏi đặc thù của từng lãnh vực (khoa học với đức tin; hoạt động với cầu nguyện ...).
3- Đa phần những người ở tuổi trung niên sống theo thói quen và hình thức. Một lối sống, một tục lệ, một trật tự, một nếp suy nghĩ . . được duy trì và bảo vệ; Do đó họ dễ trở nên thành kiến, cầu an. Chính vì lý do này mà thanh niên thường bất mãn với các bậc phụ huynh (tuổi này) vì không đồng tình hay khuyến khích họ trong những sáng kiến đổi mới táo bạo của họ.
4- Tuổi trung niên được kể là đã hoà nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội, do vậy, nghề nghiệp chiếm phần lớn đời sống của họ. Nhờ làm việc cùng với người khác và hiểu người khác nên bản ngã của họ cũng được thăng hoa; Đồng thời với họ, ngoài mục đích sinh nhai, nghề nghiệp còn là phương thế để viên thành những ước mơ và lý tưởng , để xây dựng một trật tự xã hội.
# Tóm lại : Ở tuổi này, ít ai còn ham thích được thụ huấn Giáo Lý nữa (có lẽ một phần nào là do tâm lý đã ổn định và cho rằng ‘bấy nhiêu là đủ rồi’?) Do vậy phải giúp họ thấy rằng : Đức tin luôn luôn phải được giáo dục và bồi dưỡng dù là ở tuổi nào, vì đức tin vượt lên trên mọi khó khăn đồng thời phát huy tối đa các tiềm năng của lứa tuổi. Mặt khác, cũng giúp cho tuổi trung niên thấy rằng : Đức tin không làm giảm các khả năng tự nhiên hay hạn chế các hoạt động trần thế của con người, mà ngược lại còn thăng tiến chúng.
VIII. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI THÀNH NIÊN (45-65 TUỔI)
# Đây là lứa tuổi có tâm lý đặc biệt : như mặt trăng tròn rồi lại khuyết, con nước lớn lại ròng ... tuổi thành niên cũng vậy : sau khi leo lên đỉnh dốc ở tuổi trung niên, tuổi thành niên tự cảm thấy rằng mình đã bắt đầu đi xuống theo dốc bên kia ...
1- Tuổi này, sức tranh đấu giảm dần, cảm thấy mình mệt mỏi, đuối sức và nhận rõ giới hạn của mình. Không còn chạy theo những cái mới lạ nữa nhưng vô tư, bình thành hơn trước vấn đề. Tuổi này không còn ảo tưởng nữa vì đã thấy rõ sự khác biệt giữa lý tưởng và thực tế nên khó lòng thay đổi tập quán và tánh tình.
2- Tuổi thành niên suy tư nhiều hơn nhưng cảm thấy không thể hiểu nổi thế hệ sau. Dù chỗ đứng trong xã hội đã được định đoạt nhưng họ vẫn biết rằng sắp đến lúc phải nhường chỗ lại cho bọn trẻ. Họ ít có sáng kiến hơn nhưng lại rất tin tưởng vào kinh nghiệm bản thân .
3- Tuổi nầy thể lực và tinh thần đã suy giảm nên những cám dỗ về sự hoài nghi dẫn tới khủng hoảng (trước đây chỉ ngấm ngầm) đã bộc phát và công khai đe dọa, do đó dễ bị mất quân bình và thường hay đặt lại vấn đề (người ta nói ‘già đổi tính’ là vì vậy). Có người dừng lại an phận : tiêu khiển, nghỉ ngơi, ẩn dật, nhưng số khác lại không chấp nhận tuổi già, vẫn tiếp tục lăn xả.
4- Tuổi thành niên nghĩ đến lợi ích chung hơn là lợi ích cá nhân, chú trọng đến việc phục vụ nên có thể trở thành những nhà lãnh đạo uy tín, thực tế và kinh nghiệm. Tuổi nầy cũng là tuổi thuận tiện để trở thành người vợ người chồng tốt. Mặc dù tình yêu không còn sôi nổi, rạo rực như trước đây nhưng lại rất chất lượng, sâu lắng và thâm trầm.
# Tóm lại : Đức tin của tuổi thành niên là một đức tin tổng hợp, mang tính cộng đồng và thấm nhuần hy vọng. Làm sao để cho họ thấy rằng họ đang cùng những người khác soi rọi lại toàn bộ cuộc sống của họ, từ các biến cố đến các kinh nghiệm, các giá trị ... dưới tình thương của Thiên chúa - một tình thương lớn hơn những yếu đuối, lỗi phạm của họ trước đây ...
Với một Giáo Lý như thế chắc chắn tuổi thành niên sẽ dễ dàng đón nhận vì giải thoát họ khỏi lo âu, kiêu căng hay ảo tưởng, nhưng mang lại bình an cho tâm hồn họ.
IX. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI LÃO NIÊN (TRÊN 65 TUỔI)
# Ở Á Đông thì khá hơn một chút so với Tây phương về những thành kiến khắt khe dành cho người già, nhưng không phải vì vậy mà không có những lời than phiền. Người ta cho rằng tuổi già thường là vô dụng, gây bận rộn, phiền toái và mất thời giờ cho người khác ; người già chẳng giúp gì cho việc tông đồ nên người già chẳng cần phải được dạy dỗ gì thêm. (Đây cũng chính là suy nghĩ chủ quan của một số lão niên yếm thế).
1- Tới tuổi nầy, người già đã có tạm đủ dữ kiện để nhận định cuộc đời của mình. Không những các vị ấy biết rằng mình sắp chết, sẽ phải chết, mà sự chết còn là một cái gì gần gũi và cụ thể. Hiện tại thì cận kề cái chết, tương lai thì kể như không có gì nên người già thường quay về quá khứ, sống bằng những kỷ niệm và hay kể chuyện ‘hồi xưa’, ‘còn trẻ’ ...
2- Tâm lý là do tuổi tác gây ra nên vì đó người già có thể có những thái độ không đúng mức : chua cay, oán hờn, khép kín, chỉ trích, công kích giới trẻ về mọi cái mới ; bám víu tuyệt vọng vào cuộc đời với những thú vui của nó, có những hành vi ngang ngạnh để tỏ ra mình còn trẻ, mình chưa già ...
3- Nhưng tuổi già cũng là tuổi tỏa sáng các nhân đức. Nghệ thuật làm nội ngoại của họ chỉ đơn giản là ít đòi hỏi nhưng sẵn sàng phục vụ cho con cháu, và còn phục vụ trên khả năng cho phép ngay cả khi chưa được yêu cầu. Các cụ cũng rất khoan dung (vì đã ý thức được những lỗi lầm, yếu đuối và khó khăn mà các ngày đã trải qua) đồng thời lại cũng biết kiên tâm, chấp nhận những thiếu thốn, bệnh tật, cô đơn, bị bỏ rơi và cả sự chết nữa ...
4- Đây cũng là tuổi mà con người sống chiều sâu của đời sống nội tâm thiêng liêng nhiều nhất. Siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và nhận lãnh các Bí tích là đặc điểm nổi bật cuả các bô lão Kytô giáo. Chính các ngài cũng là mực thước về đời sống luân lý cho thế hệ trẻ đồng thời cũng là bật thầy về kinh nghiệm (sống, suy tư, nghề nghiệp...)
# Tóm lại : Tuổi già không phải là lúc học thêm những điều mới hay theo đuổi những khoá Giáo Lý dài hạn với những lý luận phức tạp hay lời giảng dài dòng. Nên nuôi dưỡng tâm hồn các cụ bằng một đức tin hướng về tương lai (không phải là sự chết nhưng là cõi vĩnh hằng), phó thác trong tay Chúa và tỏa sáng các nhân đức. Cố gắng đến thăm họ, cho họ biết những tin tức trong Giáo hội, tìm cho họ việc tông đồ thích hợp (nhất là cầu nguyện cho việc truyền giáo), chuyện vãn thường xuyên với họ về các chủ đề : mầu nhiệm sự chết, hữu dụng của tuổi già, chấp nhận đau khổ để cứu chuộc mình và người khác (anh em, con cháu mình) đồng thời đừng quá lo lắng về những lỗi lầm trong quá khứ xa xưa ...
Làm được như vậy là giúp cho tuổi lão niên rất nhiều, và ngược lại, người già cũng có thể làm ích cho Giáo Hội rất nhiều.
Chương phụ lục
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
I. CÁC PHƯƠNG PHÁP CŨ VÀ MỚI
1- Phương pháp cũ
a/. Cắt nghĩa thủ bản :
Đây là phương pháp ‘cổ truyền’ còn thịnh hành khá nhiều nơi tại Việt Nam. Giáo Lý Viên đọc từng câu hỏi + thưa trong thủ bản, sau đó cắt nghĩa những từ khó bằng kiểu nói đơn sơ hơn, lấy ví dụ trong Thánh Kinh hoặc trong đời sống để soi sáng ; có khi khuyên nhủ vài lời cảm tình. Cứ thế hết câu này đến câu khác cho đến cuối bài. Sau cùng là các học viên phải học thuộc lòng cả bài... Cũng có Giáo Lý Viên cho bài về nhà học thuộc lòng trước, rồi mới cắt nghĩa sau cho rộng hơn, sâu hơn.
b/. Ưu và khuyết điểm của phương pháp này :
Phương pháp này rất tiện dụng cho phía Giáo Lý Viên, không kịp soạn bài vẫn có thể một giờ Giáo Lý ‘chu đáo’ ! Nhưng hầu như ngày nay không một nhà sư phạm giáo dục nào thật sự có thể chấp nhận, đến nỗi có tác giả đã gọi là ‘một chú giải tốt nhưng là một bài dạy Giáo Lý khả ố’ (une bonne exégèse, mais une détestable catéchèse). Ngày nay vẫn còn hiện diện các bô lão thuộc làu làu sách bổn, nhưng rất có thể đó chỉ là một mớ kiến thức khô khan, trừu tượng, không ảnh hưởng gì đến đời sống thực tế và nhất là không thích ứng, không phù hợp với tâm lý, nhu cầu và khả năng của người thụ huấn trong môi trường hôm nay.
Phương pháp cổ điển này chỉ giúp người ta ‘biết’ Thiên Chúa bằng lý trí mà thôi (đành rằng ‘vô tri bất mộ’, Satan biết Thiên Chúa hơn ai hết nhưng nào hắn có mộ mến Thiên Chúa đâu, ngược lại là khác). Nếu tìm Chúa chỉ bằng lý trí mà thôi thì khó có thể gặp được Ngài, nhưng phải bằng cả con người toàn diện với mọi khả năng, kể cả trực giác để ‘cảm nghiệm’ Thiên Chúa. Qua đó các học viên mới có thể tự mình đến với Thiên Chúa, cầu nguyện tự phát và có tâm tình thật sự với Thiên Chúa.
2- Các phương pháp mới
a/. Phương pháp chủ động :
Phương pháp này đang được phổ biến và áp dụng rộng rãi ở các nước Tây phương. Điểm chính yếu của phương pháp này là : Người dạy chỉ gợi ý, còn các học viên thì tích cực hoạt động để tự tìm ra chân lý.
b/. Phương pháp tâm lý :
Phương pháp này dựa trên những khám phá mới về tâm lý con người ở mỗi lứa tuổi, mỗi giới ... Người ta căn cứ trên những đặc điểm tâm lý riêng biệt đó để đưa ra nhưng phương pháp thích hợp nhằm thúc đẩy những khả năng tiềm ẩn nơi các học viên. Do đó, các học viên được trưởng thành toàn diện, một cách tự nhiên, chủ động nhưng có hệ thống.
c/. Ưu và khuyết điểm của phương pháp mới :
Hẳn nhiên bằng phương pháp mới người ta sẽ khắc phục được những nhược điểm của phương pháp cũ. Đó là một ưu điểm bên cạnh những ưu điểm mà ta đã biết. Dù vậy, phương pháp không phải là không có những khuyết điểm :
- Về phía Giáo Lý Viên : Phải duy nhất một Giáo Lý Viên đó theo sát từng diễn biến tâm lý của các học viên và từng học viên trong từng giai đoạn. Sẽ rất khó khăn khi có sự thay đổi Giáo Lý Viên phụ trách lớp hay nhóm đó. Hơn nữa, đòi hỏi phải có một thời gian lâu dài, mà ở môi trường chúng ta khó có một Giáo Lý Viên nào có thể đáp ứng yêu cầu này. Ngoài ra, lại một yêu cầu khó đáp ứng khác nữa đặt ra cho các Giáo Lý Viên khi áp dụng phương pháp mới là : Phải trải qua các khoá huấn luyện, trường lớp, đồng thời phải có những phương tiện vật chất dồi dào ...
- Về phía các học viên : Phương pháp mới rất sống động, vui tươi; chính vì quá vui có thể làm lu mờ nội dung đức tin và bầu khí tôn giáo của một lớp Giáo Lý; sẽ rất khó khăn trong những phút thinh lặng, suy tư, cầu nguyện; hoặc sẽ rất khó phải ‘ở một mình’ khi đã quen sống sôi động ... Như vậy, đời sống thiêng liêng sẽ rất thiệt thòi và hạn chế. Mặt khác, một khuyết điểm thuộc loại tối quan trọng nữa là với phương pháp hoạt động, khi Giáo Lý Viên đưa ra một chủ đề, các học viên sẽ chỉ theo hướng chủ quan của mình mà học hỏi, họ sẽ chỉ theo đuổi những gì mà họ thích và bỏ qua những cái khác ; Đã thế, cái ‘chân lý’ mà họ tìm ra chưa chắc đã phù hợp với đức tin. Vậy để sửa đổi cái mà chính người khác tự tìm ra và cho là đúng đó, có lẽ sẽ rất ít Giáo Lý Viên nào làm được.
II. PHƯƠNG PHÁP CỦA CHÚNG TA.
Chúng ta sẽ chọn phương pháp nào đây ? ‘Đả cựu nghinh tân’ chăng ? Hay là ‘Thủ cựu bài tân’ ? Hay cũng có thể là vì cả hai phương pháp cổ điển lẫn tân kỳ đều bộc lộ những khuyết điểm nên ta phế bỏ cả và chỉ dạy Giáo Lý bằng phương pháp ‘tùy hứng’ ? ...
Vì nội dung của Giáo Lý cổ điển phụ thuộc quá sâu đậm vào hai yếu tố do hoàn cảnh gây ra : trước hết là cái sở thích của thời Trung cổ : kê khai những công thức chia theo toán học và những con số, nên chỉ thiên về luân lý. Thứ hai là hậu ý chống lại các bè rối (thế kỷ 16) cho nên Giáo Lý được trình bày với tính cách hộ giáo và đặc biệt chú ý những khía cạnh bị phủ nhận mà bỏ qua những khía cạnh khác phong phú hơn.
Cách nhìn truyền thống đó không sai nhưng chỉ tập trung hạn hẹp vào khía cạnh sinh hoạt nhân bản mà quên đề cao sáng kiến của Thiên Chúa. Vả lại, hiện nay Giáo Hội không còn phải đương đầu với một bè rối nhất định nhưng phải đối đầu với một làn sóng ‘lãnh đạm với thực tại siêu nhiên’ đang lan tràn ồ ạt ... Cho nên cần phải làm cho người ta có một quan niệm sáng sủa, phấn khởi và bao quát về thế giới siêu nhiên, về Nước Trời mà Chúa đã thiết lập ở trần gian.
Có nên chăng áp dụng câu nói của Chúa Giêsu : ‘ ... Giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ’ (Mt 13. 52) ? Một cách chung, có lẽ chúng ta nên tận dụng những cái hay đồng thời hạn chế và bài trừ những cái chưa hay của mọi phương pháp. Hơn nữa, nếu phương pháp phụ thuộc vào chủ đích, nội dung và đối tượng thì khi các yếu tố đó thay đổi (nhất là đối tượng con người) thì phương pháp truyền giảng Tin Mừng cho con người cũng thay đổi. Chắc chắn sẽ gây khó chịu cho những ai quen sống nề nếp, nhưng buộc phải như thế nếu muốn khai thác kho tàng bất tận của Tin Mừng để đáp ứng cho nhưng đòi hỏi của một thế giới đầy biến động ... Vì thế, muốn bổ khuyết cho đức tin và đời sống đạo trong hoàn cảnh văn minh vật chất hôm nay, phải không ngừng canh tân việc dạy Giáo Lý. Vì lẽ đó, với chúng ta, phương pháp dạy Giáo Lý hầu như không bao giờ cố định hay thành hình.
Fat. Vĩnh Long
JNT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sư phạm Giáo Lý : Lm. Nguyễn Văn Tuyên.
Sư phạm Giáo Lý I : Lm. Trịnh Thiên Thu.
Hồng Ân Huấn Giáo II : Giáo Phận Xuân Lộc.
Hướng dẫn Giáo Lý Viên : Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm .
Tông Huấn ‘Dạy Giáo Lý trong thời đại chúng ta’ (Tradendae Catechesi) / Đức Giáo Hoàng Joan Phaolo II.
Công Đồng Vatican II : Sắc lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes)
Chương mở đầu :
NHỮNG ĐÒI HỎI QUAN YẾU NƠI GIÁO LÝ VIÊN
Chương một :
TIẾN TRÌNH CĂN BẢN CỦA MỘT BÀI GIÁO LÝ
Chương hai :
VÀI HÌNH THỨC TƯƠNG ĐƯƠNG BÀI GIÁO LÝ
Chương ba :
TRƯỚC VÀ SAU MỘT BÀI GIÁO LÝ
Chương bốn :
GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Chương năm :
TÂM LÝ CHUNG CỦA CÁC HỌC VIÊN GIÁO LÝ
Chương phụ lục :
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
Chương mở đầu
NHỮNG ĐÒI HỎI QUAN YẾU NƠI GIÁO LÝ VIÊN
Muốn hướng dẫn Giáo Lý có hiệu quả, hoặc chí ít là để tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc, cần phải đạt được những điều kiện; trong số đó có những điều kiện thiết yếu sau đây mà một Giáo Lý Viên không thể không có :
- Đời sống thiêng liêng.
- Nhiệt thành tông đồ.
- Kiến thức tôn giáo.
- Khả năng sư phạm.
I. MỘT ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG SÂU SẮC
1- ‘Không thể cho người khác cái mà mình không có’. Giáo Lý viên không thể thông truyền đức tin cho người khác được nếu chính bản thân Giáo Lý viên đó không có đức tin hoặc có một đức tin quá yếu kém và què quặt. Chỉ có những ai có một đức tin sống động mới có thể chu toàn sứ mạng của mình được trong nhiệm vụ thông truyền và giáo dục đức tin cũng như làm tăng trưởng đức tin nơi người khác.
2- Chỉ những Giáo Lý Viên nào có một cảm nghiệm đích thân về Thiên Chúa mới có thể dẫn đưa người khác đến với Thiên Chúa được. Lời giảng dạy của Giáo Lý Viên đã quan trọng, nhưng lối sống của Giáo Lý Viên còn quan trọng hơn rất nhiều. Trước khi là thầy dạy, Giáo Lý Viên phải là một chứng nhân. Các học viên Giáo Lý sẽ không bao giờ chấp nhận một Giáo Lý Viên ‘nói thì hay mà cày thì dở’. Phải ‘sống với Chúa’ để minh chứng cho việc ‘nói về Chúa’.
II. MỘT TẤM LÒNG NHIỆT THÀNH TÔNG ĐỒ
1- Một Giáo Lý Viên có một lòng nhiệt thành tông đồ thật sự sẽ rất đắc lực trong việc mở mang Nước Chúa cũng như đạt hiệu quả tốt trong việc dạy Giáo Lý. Ngọn lửa nhiệt thành trong tâm hồn càng dâng cao thì nó ắt sẽ tỏa sáng và lan rộng; tỏa sáng cho mọi người và lan rộng đến mọi người, đồng thời nó cũng tỏa sáng cho chính Giáo Lý Viên trong việc tìm tòi và sáng tạo làm tăng hiệu năng trong công việc dạy Giáo Lý.
2- Lòng nhiệt thành và tình yêu mến (yêu mến Chúa, yêu mến các linh hồn và yêu mến sứ mạng) sẽ giúp Giáo Lý Viên đào sâu và khơi rộng thêm những hiểu biết về Thiên Chúa cũng như về sứ mạng của chính mình, nhờ đó sẽ gắn bó hơn nữa với sứ mạng được giao phó, dám sống chết với sứ mạng đó. Lòng nhiệt thành còn giúp Giáo Lý Viên vượt qua một cách dễ dàng những khó khăn bất tiện trong đời sống hàng ngày cũng như trong khi thi hành sứ mạng.
III. MỘT NỀN TẢNG GIÁO LÝ VỮNG CHẮC
1- Giáo Lý Viên phải được học hỏi và bồi dưỡng liên tục về nội dung Giáo Lý tức là Nhiệm cục Cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người cùng với ‘Mầu nhiệm trung tâm của trung tâm’. (Mầu nhiệm Phục sinh là trung tâm của cuộc đời Chúa Kytô, mà Chúa Kytô là trung tâm của Lịch sử Cứu độ ; nên Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kytô được gọi là ‘Mầu nhiệm trung tâm của trung tâm’.)
Nói cách khác, nội dung Giáo Lý là : Lịch sử Cứu Độ mà Chúa Kytô là trung tâm cùng với Mầu nhiệm Phục Sinh của Người, phải được các Giáo Lý Viên nắm vững và không ngừng được học hỏi thêm.
2- Một Giáo Lý Viên có một kiến thức tôn giáo phong phú sẽ giúp các học viên dễ dàng có một ý niệm về Thiên Chúa đúng đắn hơn, để có thể đến gần, trò chuyện và sống thân mật với Chúa hơn. Ngược lại, một Giáo Lý Viên kém cỏi về mặt này có khi lại làm các học viên nghi ngờ những gì được nghe và đôi khi lại nghi ngờ chính Thiên Chúa nữa...
ĐGH Pio XI nói : ‘Ngu dốt về Giáo Lý là một sự nhục nhã cho các nước Kytô giáo Âu châu’. Còn ĐGH Pio XII thì nói : ‘Ngu dốt Giáo Lý là một vết thương toang hoác bên cạnh sườn Giáo Hội’.
IV. MỘT CỐ GẮNG VỀ SƯ PHẠM VÀ TÂM LÝ
1- Giáo Lý Viên cần phải có một khoa sư phạm để có thể truyền đạt Giáo Lý một cách có hệ thống, có phương pháp nhằm nâng cao tối đa hiệu năng. Tuy vậy, không phải chỉ cần trải qua một ít thời gian học hỏi về Sư phạm Giáo Lý là đã có thể an tâm trong việc dạy Giáo Lý, mà phải không ngừng học hỏi và vươn lên. Phải tự mình rút tỉa kinh nghiệm đồng thời cũng học hỏi nơi các Giáo Lý Viên khác để có những đổi mới cho phù hợp với thính giả, với môi trường và với những điều kiện khách quan khác trong việc truyền đạt Lời Thiên Chúa.
2- Ngoài ra, Giáo Lý Viên còn phải chú trọng đến tâm lý của các học viên của mình, cách suy nghĩ cũng như khả năng tiếp nhận ... Nhưng trên hết, Giáo Lý Viên phải có thiện cảm và tình yêu thương thật sự dành cho các học viên của mình. Bất cứ công cuộc giáo dục nào muốn thành tựu phải được đặt trên nền tảng của yêu thương, nhất là đối với thanh thiếu niên. Làm cho các em sợ thì dễ, nhưng làm cho các em yêu thích thì rất khó. Hơn nữa, giáo dục là cảm hóa, mà chỉ tình yêu mới có sức mạnh cảm hoá. Trong công cuộc giáo dục đức tin, điều này càng đúng hơn nữa vì ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1 Jn 4. 8,16) và yêu thương chính là giới luật trọn hảo của Kytô-giáo (x. Jn 13. 35).
* Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm nói : ‘Các tài liệu của Huấn Quyền đều nhấn mạnh đến việc đào tạo Giáo Lý Viên một cách toàn diện và chuyên biệt’.
(- Toàn diện là bao gôm mọi chiều kích của công việc mà các Giáo Lý Viên.
- Chuyên biệt là phù hợp với đặc tính của công việc mà các Giáo Lý Viên được mời gọi giúp các mục tử.)
* ĐGH Joan Phaolo II cũng minh định : ‘Để bảo đảm cho sứ vụ của Hội Thánh có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện Giáo Lý Viên về các mặt, từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn’.
Chương một
TIẾN TRÌNH CĂN BẢN CỦA MỘT BÀI GIÁO LÝ
Trong cùng một khoảng thời gian dành cho giờ Giáo Lý (5O-7O phút) nhưng tùy theo số lượng và lứa tuổi của học viên mà chúng ta có những bước đi khác nhau. Tuy vậy cũng xin đưa ra một tiến trình căn bản, cách chung gồm bảy bước :
+ Cầu nguyện mở đầu.
+ Bài giảng.
+ Nghe Lời Chúa.
+ Cầu nguyện.
+ Sinh hoạt.
+ Chép bài.
+ Cầu nguyện kết thúc.
* Vài điểm nhỏ cần lưu ý :
- Mỗi bước trong một bài Giáo Lý không nhất thiết phải bằng nhau về thời gian.
- Có thể rút ngắn (hay kéo dài) phần này hay phần kia để cho bài Giáo Lý thêm linh động, phù hợp. Cũng vậy, có thể rút bỏ phần nào kém quan trọng...
- Như chúng ta đã thấy, phần cầu nguyện được đặt ở trung tâm bài Giáo Lý, rồi mở đầu và kết thúc của bài Giáo Lý cũng là cầu nguyện; như vậy đủ thấy tầm quan trọng của nó, đồng thời cũng thấy sự khác biệt giữa một giờ học Giáo Lý và một lớp học phổ thông.
- Lược đồ bảy bước này rất thích hợp cho các học viên nhỏ tuổi (7-15 tuổi) nhưng có vẻ không phù hợp lắm cho những học viên ở tuổi lớn hơn.
- Lớp học quá đông sẽ rất khó khăn về mặt sư phạm.
1- Cầu nguyện mở đầu
- Thông thường các Giáo Lý Viên nên đến lớp sớm hơn giờ học một chút để có thời gian đón tiếp, thăm hỏi các em; đồng thời cũng để ổn định phòng ốc. (Một kinh nghiệm riêng : đừng để các em chơi những trò chơi vận dụng quá nhiều thể lực liền trước giờ học Giáo Lý)
- Khi đã ổn định lớp xong mới cầu nguyện mở đầu, chứ không phải cầu nguyện là một cách để ổn định lớp.
- Hình thức cầu nguyện vắn tắt và thường xuyên thay đổi cho đỡ nhàm chán.
- Mục đích :
+ Đặt các em trước mặt Chúa.
+ Xin Chúa thánh hoá giờ học.
+ Tạo bầu khí tôn giáo.
- Để đạt được những mục đích đó, trước khi cầu nguyện cần nhắc nhở các em trước về tư cách tác phong, cử chỉ thái độ. Thông thường trong tư thế đứng nghiêm trang, khoanh tay hoặc chắp tay.
2- Bài giảng
- Đây chính là phần trình bày nội dung của bài Giáo Lý, nhưng trước khi giảng bài mới, cần có một ít thời gian để kiểm tra sơ lại bài cũ.
- Có 2 cách giảng : độc thoại và đối thoại.
+ Nếu độc thoại thì nên giảng ngắn vì sức chú ý của học viên có giới hạn.
+ Nếu đối thoại thì có thể dài hơn (với cách này nên lưu ý 2 điểm đừng quá dài để ‘cháy giáo án’ và coi chừng bị lạc đề vì các câu hỏi của học viên).
- Sự chú ý của các học viên đang lên cao ở khoảng thời gian này, do đó phải khai thác tối đa bằng cách sắp xếp các ý tưởng thật mạch lạc, chọn kiểu nói dễ hiểu và cắt bỏ những gì dư thừa và phụ thuộc.
- Bài giảng còn được coi như một bài nói chuyện của Giáo Lý Viên, phải làm sao đạt được đồng thời hai mục đích: trình bày đề tài bài học và khêu gợi tâm tình tôn giáo phù hợp với đề tài bài học.
- Thường thì các Giáo Lý Viên hay dùng phương pháp quy nạp : khởi đầu bằng một sự kiện cụ thể hoặc một câu chuyện để rút ra một kết luận, một bài học, rồi áp dụng vào bài Giáo Lý đang trình bày.
3- Nghe Lời Chúa
- Trong phần bài giảng, các học viên đã được nghe giải thích Lời Chúa, bây giờ được nghe trực tiếp chính Lời của Chúa về đề tài đã trình bày trong bài giảng.
- Chọn vài câu ngắn, nội dung dễ hiểu để đọc cho các học viên nghe.
- Điều quan trọng là tập cho các học viên có thái độ tôn kính tiếp nhận Lời Chúa với lòng tin, để nhờ đó, Lời Chúa tác động từng bước trong tâm hồn các học viên.
4- Cầu nguyện
Đây chính là chóp đỉnh của một bài Giáo Lý. Tâm tình tôn giáo được bài giảng đánh thức rồi được tăng cường bằng việc nghe Lời Chúa, giờ đây kết tinh lại thành lời nguyện sống động trong mấy phút đối diện với Thiên Chúa.
5- Sinh hoạt
- Phần sinh hoạt dài hay ngắn tùy vào số lượng và độ tuổi của học viên: học viên ít và nhỏ tuổi thì sinh hoạt dễ và dài hơn.
- Phần sinh hoạt này có hai mục đích :
+ Với các học viên : giúp hiểu sâu hơn bài học đồng thời thích thú với những gì đã học được bằng việc chủ động vận dụng tất cả các khả năng và cơ năng (óc thẩm mỹ, trí tưởng tượng, khéo léo chân tay...).
+ Với Giáo Lý Viên : giúp đánh giá dược mức độ hiểu bài của học viên đồng thời kiểm điểm lại cách thức giảng bài của mình.
6- Chép bài
- Sau khi sinh hoạt nên tóm tắt lại bài học, đúc kết, đề ra phần áp dụng (thực hành) sau đó cho chép vào tập rồi chỉ bài phải học thuộc lòng ở nhà.
- Lần tới cũng nên hỏi bài lại xem các em đã hiểu bài và thuộc bài tới đâu, nếu cần cũng nên cho điểm để khuyến khích thi đua (thi đua chứ không phải ganh đua). Nên khảo bài vì ở tuổi học sinh dù có tự giác tới đâu vẫn cần phải có người thúc đẩy.
7- Cầu nguyện kết thúc
Cuối cùng là phần cầu nguyện kết thúc có tính cách tạ ơn và dốc lòng thực hiện những điều đã lãnh hội trong lớp Giáo Lý. Cũng giống như phần cầu nguyện mở đầu, hình thức nên thay đổi, đơn giản và vắn tắt.
I. CẦU NGUYỆN TRONG BÀI GIÁO LÝ
Như trên ta thấy, trong một bài Giáo Lý có ba lần cầu nguyện. Hình thức và nội dung của phần cầu nguyện mở đầu và kết thúc hơi giống nhau nhưng lại khác hẳn so với phần cầu nguyện ở trung tâm bài Giáo Lý (được gọi là phần cầu nguyện đỉnh cao của bài Giáo Lý)
1- Cầu nguyện mở đầu và kết thúc
Một Giáo Lý Viên giàu kinh nghiệm có thể đánh giá gần đúng tâm lý các học viên, những gì các em học hỏi được cũng như kết quả của một bài Giáo Lý bằng cách quan sát cử điệu và tâm tình của các em trong lời cầu nghyện mở đầu và kết thúc.
- Mục đích chính của cầu nguyện mở đầu và kết thúc là : xin Chúa thánh hoá giờ học và tạ ơn Chúa về giờ học đã qua.
- Hình thức nên ngắn gọn và luôn thay đổi để khỏi nhàm chán, trở thành một ‘thủ tục’
Có nhiều hình thức : Hát một bài ngắn, đọc một lời nguyện tắt do Giáo Lý Viên hoặc một học viên tự phát (với các em nhỏ, Giáo Lý Viên có thể đọc từng câu cho các em lặp lại, hoặc làm dấu Thánh Giá rồi thinh lặng giây lát cầu nguyện riêng...) nhưng thường gặp nhất là đọc một kinh (mở đầu : kinh Lạy Cha; kết thúc : kinh Sáng Danh)
2- Cầu nguyện đỉnh cao
Giáo Lý Viên cần huấn luyện cho học viên của mình có một tinh thần cầu nguyện.
a. Thái độ đối với Thiên Chúa :
Đây là một thái độ của tâm hồn. Muốn có thái độ đúng đắn khi cầu nguyện, trước tiên phải xác định vị trí của chúng ta đối với Thiên Chúa (nói khác đi, phải tự vấn đáp : ‘Thiên Chúa là ai đối với tôi ?’.
- Thái độ của một tạo vật đối với Đấng Tạo Hoá :
+ Thờ lạy (Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối).
+ Ca tụng (Thiên Chúa là Đấng tuyệt mỹ).
+ Tri ân (Thiên chúa là Đấng nhân hậu và giàu tình thương...).
- Thái dộ của một người con đối với cha hiền :
+ Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta và cho chúng ta trở thành con của Ngài.
+ Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn (‘Abba’ - Cha ơi !)
+ Giống như Chúa Giêsu, đối với Chúa Cha, chúng ta cũng có tâm tình của một người con : yêu mến, kính trọng, vâng lời, cậy trông, phó thác...
- Thái độ của một tội nhân :
+ Khao khát Ơn Cứu Độ.
+ Tin tưởng và cậy trông vào lòng nhân lành của Chúa.
+ Ý thức thân phận dòn mỏng, yếu đuối, dễ sai phạm... của một tạo vật bất toàn.
# Nếu thật sự có được những tâm tình ấy, giờ cầu nguyện sẽ hết sức thâm trầm, sâu lắng và đạt được kết quả tốt.
b. Những điều kiện thiết yếu :
Cần phải có vài điều kiện thuận lợi để có thể gặp gỡ Thiên Chúa thật sự trong lời cầu nguyện.
- Đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa :
Nói chuyện với ai thì tiên vàn người ấy phải có mặt ; vậy phải ý thức rằng Thiên Chúa đang hiện diện với mình rồi cố gắng hiện diện với Thiên Chúa và nói với Ngài bằng những tâm tình thật sự của mình (để cho trẻ ý thức Thiên Chúa hiện diện, Giáo Lý Viên nên hướng dẫn các em bằng những kiểu nói cụ thể, bằng tranh ảnh - ảnh tượng - bàn thờ - nến ... hoặc qua thiên nhiên)
- Có chuyện để nói với Thiên Chúa :
Cần tập cho các em hiểu : cầu nguyện là nói với Thiên Chúa những điều mình có ở trong lòng ; Do đó sau khi đã đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nên gợi cho các em một tâm tình thích hợp, (trong bài Giáo Lý, tâm tình này đã được chuẩn bị trước bằng bài giảng) sau đó giúp các em tìm những lời nói và cử chỉ thích hợp để diễn tả tâm tình.
- Tạo một bầu khí thuận lợi :
Phải cố gắng lo liệu sao cho phần cầu nguyện được lồng trong một bầu khí tôn nghiêm, tự do và yên tĩnh.
+ Tôn nghiêm : vì có Thiên Chúa hiện diện.
+ Tự do : không ép buộc, nhưng thuyết phục và khuyến khích các em tự ý trút bỏ mọi sự để đến với Thiên Chúa.
+ Yên tĩnh: Ta khó chủ động được hoàn cảnh bên ngoài nhưng nó lại khá quan trọng. Dù vậy, chúng ta cũng có thể khắc phục bằng cách, nếu thấy bầu khí bên ngoài quá ồn ào khiến các em không cầm trí được, hãy tạm hoãn lại, đợi lúc khác thuận tiện hơn sẽ cầu nguyện.
- Thái độ của Giáo Lý Viên
Thái độ của Giáo Lý Viên trong giờ cầu nguyện rất quan trọng đối với các em. Chúng có thể cảm thấy đang đứng trước mặt Thiên Chúa (hay không) phần lớn là do chính thái độ của Giáo Lý Viên. Do đó, Giáo Lý Viên phải hết sức trang nghiêm trong khi cầu nguyện. Phải cùng cầu nguyện với các em trước mặt các em. (Kinh nghiệm riêng : khi cầu nguyện cùng với các em nhỏ nên đứng đối diện với các em ; ngược lại với các em lớn hơn, khi cầu nguyện có thể đứng cùng phía với các em, cùng hướng lên ảnh tượng hay một điểm cố định nào đó. Nếu trong phòng học có hai dãy bàn, nên đứng ở giữa)
Nếu cần phải sửa lỗi thì để sau khi cầu nguyện xong, làm một cách dịu dàng và ôn tồn. Nhưng tốt nhất nên nhắc nhở các em trước khi cầu nguyện.
c. Cách diễn tả tâm tình :
Các hình thức bên ngoài (lời nói, cử điệu...) là cần thiết, nhưng sẽ rất vô dụng nếu không có chiều sâu và phát xuất từ nội tâm. Cũng không nên cầu kỳ, càng đơn giản càng tốt.
- Cử điệu : Thường chúng không thể phát biểu được thành lời những tâm tình dồi dào, sâu lắng thật sự bên trong, nên các em hay biểu lộ ra bằng những cử chỉ bên ngoài, có khi hết sức giản dơn nhưng giàu ý nghĩa :
+ Bái gối, cúi đầu : Ý thức mình bé nhỏ trước Thiên Chúa.
+ Dấu Thánh giá : Trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa.
+ Chắp tay : Hướng về Chúa.
+ Nhắm mắt : Tìm kiếm, chiêm ngắm Đấng Vô Hình.
+ Im lặng : Lắng nghe tiếng Chúa.
Đó là những cử điệu tự các em có thể thể hiện được, nên chỉ thêm cho các em những cử điệu khác : cúi đầu, đấm ngực (ăn năn, thống hối... như người thu thuế) hoặc nâng cao hai tay khi hát ‘Con xin dâng lên tòa Chúa uy linh’ hay ‘ Hai tay con dâng lên Ngài thế giới’...
Ngay cả khi tâm trí mỏi mệt, nếu vẫn giữ được thái độ kính cẩn, trang nghiêm cũng là một cách cầu nguyện tuyệt hảo.
- Lời nói : Đừng quá khuôn sáo với những lời cầu nguyện quen dùng nhưng lại nghèo nàn ý nghĩa. Nên tập cho các em làm quen với những lời mà Giáo Hội thường dùng để thưa chuyện với Thiên Chúa (Phụng vụ)
+ Những lời trong Thánh vịnh (các bài đáp ca) ‘Chúa là mục tử’ , ‘Từ vực sâu’.
+ Những lời mang tính tôn thờ (Kinh Vinh Danh)
+ Những lời dành riêng cho Thiên Chúa: ‘Tạ ơn Chúa’ , ‘Amen’ , ‘Xin Chúa thương xót’...
(Vì là những câu quen thuộc, nên tránh tục hoá. Phải dùng một cách kính cẩn kèm theo lời giải thích ý nghĩa sâu xa của chúng...) Nếu chúng ta càng dựa vào Thánh kinh và Phụng vụ, các em nhỏ sẽ càng mau quen với một lối cầu nguyện đơn giản, khiêm tốn nhưng đại đồng, quy về Thiên Chúa và do Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Tuy vậy, cũng nên tôn trọng những lời nói biểu lộ những tâm tình thật sự của các em.
- Thinh lặng : Thinh lặng cũng là một phần của phút cầu nguyện. Khi cầu nguyện chung nên có một chút yên lặng (hoặc trước hoặc sau).
+ Im lặng trước : Sau phút im lặng, lời cầu nguyện chung sẽ là lời tóm kết các ý nguyện thầm của riêng mỗi người trước đó. Sau lời cầu nguyện chung, tất cả thưa ‘Amen’.
+ Im lặng sau : Sau khi đọc lời nguyện chung, mỗi người cầu nguyện và suy niệm riêng theo ý được gợi lên.
- Nội tâm hoá : Ban đầu trẻ em diễn tả tâm tình bằng những cử điệu, lời nói, tiếng ca... theo đúng như Giáo Lý Viên, nhưng nên dần dần tập cho các em biệt vị hoá và nội tâm hoá lời cầu nguyện của mình theo tiến trình sau :
+ Cho các em lặp lại lớn tiếng những gì ta đọc trước, sau đó dần dần nhỏ hơn rồi đến thầm thĩ trong lòng.
+ Làm trước những cử điệu cho các em bắt chước trong khi vẫn cầu nguyện lớn tiếng, sau đó cắt nghĩa cho biết các em phải làm gì, rồi để các em tự làm lấy.
+ Đưa ra nhiều cách diễn tả tâm tình rồi cho các em tự chọn kiểu nào tùy thích.
+ Gợi tâm tình rồi để các em tự diễn tả tâm tình đó.
+ Sau mỗi lần cầu nguyện riêng, nhớ cho tất cả cùng cầu nguyện chung bằng một bài hát, một thánh vịnh hoặc một lời nguyện chung tự phát, tất cả thưa ‘Amen’ .
d. Vài cách thức cầu nguyện trong giờ Giáo Lý :
- Giáo Lý Viên nói lớn tiếng từng câu ngắn (hoặc nhờ một học viên đại diện), các học viên lặp lại lớn tiếng (hoặc thầm trong lòng) từng câu.
- Cầu nguyện đối đáp kiểu ‘kinh cầu’ hoặc giống ‘đáp ca’ trong thánh lễ : Giáo Lý Viên thay đổi lời nguyện, các học viên lặp lại cùng một câu đáp sau mỗi lời nguyện.
- Chia thành hai nhóm, luân phiên nhau đọc từng lời nguyện (nên soạn ra giấy hoặc ghi lên bảng trước).
- Giáo Lý Viên (hoặc một học viên) ‘chủ sự’ đọc một lời nguyện, tất cả thưa ‘Amen’.
- Đọc một kinh thật chậm và bảo các em chú ý đến từng lời mình đọc hoặc dừng lại sau mỗi câu và giải thích ý nghĩa câu đó. Nên giải thích ngắn gọn, dễ hiểu, đi thẳng vào tâm hồn và đánh động tâm hồn các em.
- Giáo Lý Viên không gợi lên tâm tình nữa nhưng đưa ra một đề tài, các học viên tự tìm ra tâm tình thích hợp để cầu nguyện. Cách này khó hơn vì đòi hỏi phải trưởng thành, do đó chỉ có thể áp dụng cho các em lớn, quen suy nghĩ.
e. Cách thức soạn một lời nguyện :
Một lời nguyện cân đối và đầy đủ, theo mẫu những lời nguyện chính thức của Giáo Hội gồm có bốn phần như sau :
- Trình bày lý do : Thường dựa vào một lời Chúa phán, một việc Chúa làm, một ưu phẩm của Chúa hoặc một biến cố xảy ra...
- Trình bày nội dung : Nêu lên điều mình muốn xin...
- Trình bày mục đích : Xin ơn đó để làm gì . Thường có hai mục đích chính : mục đích liên quan đến con người (bản thân mình, thân nhân, tha nhân, Giáo Hội, thế giới...) và mục đích liên quan đến Thiên Chúa (làm vinh danh Thiên Chúa).
- Kết thúc : Cậy trông Thiên Chúa sẽ ban cho, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kytô.
# Thí dụ :
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: ‘Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít... ‘ (trình bày lý do).
Xin Chúa cho chúng con biết vâng theo tiếng Chúa gọi, dấn thân trong đời sống tu trì... (trình bày nội dung).
Để chúng con có thể gieo rắc ơn cứu độ của Chúa, sinh ích cho nhiều linh hồn (mục đích 1) và làm cho Nước Chúa trị đến (mục đích 2).
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kytô Chúa chúng con. Amen (kết thúc).
# Cơ cấu cổ điển của một lời nguyện là như vậy, nhưng lời nguyện cũng có thể rất uyển chuyển. Điều quan trọng là đơn giản và chân thực, nói lên được những tâm tình mà mình muốn nói với Thiên Chúa.
II. KỂ CHUYỆN TRONG BÀI GIÁO LÝ
Thông thường, bài Giáo Lý được trình bày theo lối quy nạp, cho nên trong phần bài giảng thường lấy một câu chuyện cụ thể làm khởi điểm rồi theo đó, trình bày đề tài của bài Giáo Lý.
1- Các loại chuyện :
Những chuyện kể trong bài Giáo Lý được chia thành ba loại :
- Các câu chuyện trong Kinh thánh.
- Các câu chuyện về lịch sử Giáo Hội và cuộc đời các thánh.
- Các câu chuyện thời sự hoặc thường nhật.
a. Các câu chuyện trong Kinh thánh :
- Trong Cựu Ước lẫn Tân Ước có rất nhiều những câu chuyện hay mà không phải các tín hữu ai cũng biết rõ, nhất là bối cảnh của câu chuyện. Những câu chuyện này mang tính chất và nội dung tôn giáo rất cao cho nên rất tốt và rất thích hợp để dùng trình bày đề tài trong một bài Giáo Lý.
- Các Giáo Lý Viên khi soạn bài nên ưu tiên cho loại chuyện này vì khi chuyển sang áp dụng vào bài Giáo Lý sẽ rất dễ dàng, mạch lạc và tự nhiên.
- Các câu chuyện trong Cựu Ước :
+ Chuyện về các nhân vật và cuộc đời của họ. (Abraham, Mosé, David...).
+ Chuyện về các biến cố (Hồng thủy, Xuất hành, chiến thắng quân thù...).
+ Chuyện sự tích (từ ngữ Babel, Manna...).
+ Chuyện giáo dục (tôn giáo và nhân bản : trung tín vâng lời...).
- Các câu chuyện trong Tân Ước :
+ Chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu (Truyền tin, Tử nạn, Phục Sinh...).
+ Chuyện về các dụ ngôn (hạt cải, cỏ lùng, tiệc cưới, cây nho...).
+ Chuyện về các phép lạ (bánh hoá nhiều, nước hoá rượu, chữa bệnh...).
# Cần lưu ý:
Một câu chuyện trong Kinh thánh có thể có rất nhiều ý nghĩa, do đó có thể dùng để trình bày nhiều đề tài Giáo Lý khác nhau. Tuy vậy trong mỗi bài Giáo Lý chỉ nên dùng một ý nghĩa thích hợp với đề tài đó thôi, đừng nên pha trộn hoặc liệt kê hết tất cả các ý sẽ làm loãng đi ý chính và làm cho các học viên không nắm được chủ ý.
b. Các câu chuyện về lịch sử Giáo Hội và cuộc đời các thánh :
- Đây cũng là một kho tàng phong phú chứa đựng rất nhiều những sự kiện có thể dùng trình bày các đề tài Giáo Lý. Tuy nhiên phải lựa chọn thật kỹ lưỡng và áp dụng thật khéo léo và nhất là phải hết sức trung thực chứ đừng ‘vẽ râu’ cho các thánh hay ‘thêm mắm muối’ vào lịch sử Giáo Hội. Những tình tiết ly kỳ, huyễn hoặc, phi lịch sử cần phải loại bỏ vì dù có thể làm cho các em thích thú nhất thời nhưng sẽ làm hại cho đức tin của các em sau này.
- Với các câu chuyện loại này, đòi các Giáo Lý Viên phải tham khảo nhiều tài liệu và sách vở. Sau đây là vài gợi ý :
+ Ơn gọi làm tông đồ : thánh Phaolô.
+ Thiên Chúa là tuyệt đối, là hạnh phúc thật : thánh Augustino.
+ Tinh thần nghèo khó vì Nước Trời : thánh Phanxicô Assisi.
+ Tinh thần truyền giáo : thánh Phanxicô Xaviê.
+ Chứng nhân : Các thánh Tử đạo Việt nam.
+ Tinh thần bé thơ : thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
+ Gương trinh trong : thánh Maria Goretti.
+ Chết cho người khác : thánh Maximiliano Kolbê.
c. Các câu chuyện thời sự hoặc thường nhật :
Những câu chuyện có tính thời sự hoặc xảy ra hàng ngày cũng có thể dùng làm khởi điểm cho bài Giáo Lý, tuy nhiên phải hết sức thận trọng nếu không muốn bị ‘lạc quẻ’ , ‘trơ trẽn’ hay phản tác dụng. Chỉ chọn những câu chuyện loại này khi hội đủ hai điều kiện :
- Thích hợp với chủ đề tôn giáo (ít ra cũng không được mâu thuẫn).
- Có thể chuyển sang đề tài Giáo Lý một cách dễ dàng, không gượng ép, giả tạo.
2- Cách kể chuyện
- Kể chuyện trong giờ Giáo Lý không phải với mục đích mua vui hay giải trí cho các học viên nhhưng là một phương thế dẫn tới Tin Mừng và truyền đạt Tin Mừng. Do vậy phải lự chọn những câu chuyện có thể áp dụng được vào bài Giáo Lý.
- Vì mục đích đó nên khi kể chuyện phải loại bỏ những chi tiết rườm rà, dư thừa, không kiên quan đến vấn đề đang cần trình bày; nên trình bày ngắn gọn và cụ thể những nét làm nổi bật mà mình sẽ đem áp dụng vào bài Giáo Lý.
- Cần chú trọng đến tâm lý các nhân vật trong câu chuyện và tránh ‘huyền thoại hoá’, tiểu thuyết hoá’ câu chuyện.
- Trong khi kể chuyện nên để ý đến thái độ các em. Phải biết tự chủ, đừng để câu chuyện kéo mình đi.
- Khi kể chuyện, nên tận dụng hết mọi kỹ năng (cử chỉ, điệu bộ, diễn tả... lời nói mạnh nhẹ, bổng trầm...) để truyền đạt một ý tưởng, một tâm tình.
- Cần hết sức lưu ý đến thời gian : kể chuyện chỉ là một phần trong bài giảng và là một phần rất nhỏ trong bài Giáo Lý, đừng để mất quá nhiều thời gian cho câu chuyện kể mà bỏ đi những phần quan trọng khác.
# Tóm lại : Chính đề tài Giáo Lý phải hướng dẫn sự lựa chọn câu chuyện và cách kể chuyện.
III. VẤN ĐÁP TRONG BÀI GIÁO LÝ
Khi đi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng thường trả lời những câu hỏi do dân chúng đặt ra. Thí dụ : ‘Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?’ ( Jn1.38); dân chúng: ‘Ông có phải là Đức Kytô không ?’ (Mt 11.3) ; rồi người thanh niên giàu có : ‘Tôi phải làm gì để được sống đời đời ?’ (Mt 19.16)
Ngược lại, đôi khi Chúa cũng đặt ra câu hỏi cho người khác. Thí dụ : Với người mù : ‘Anh có tin vào Con Người không ?’ (Jn 9.35) hay với các Tông đồ : ‘Các con nói Thầy là ai?’ (Mt 16.15) ...
Khi giảng bài, Giáo Lý Viên nên đặt các câu hỏi ra cho học viên để các em chú ý hơn bài giảng đồng thời để trắc nghiệm xem các em hiểu bài như thế nào và hiểu đến đâu, ngoài ra còn giúp các em diễn tả được những suy nghĩ chính của mình. Bên cạnh đó cũng nên khuyến khích các em đặt ra câu hỏi, xét về tâm lý có nhiều ý nghĩa :
- Đặt câu hỏi là đã thắng vượt được tính e lệ, nhút nhát, thái độ lãnh đạm và khuynh hướng cá nhân ... và đã có thái độ cởi mở, muốn trao đổi và lắng nghe ...
- Đặt câu hỏi là xác định bản lãnh của mình : có những ý nghĩa riêng tư muốn mang ra đối chiếu với những ý nghĩ và quan tâm của người khác.
- Đặt câu hỏi là đã hiểu được một phần vấn đề, ngay cả khi chưa biết giải quyết thế nào nhưng ít nhất vẫn thấy là vấn đề cần phải giải quyết.
1- Giáo Lý Viên đặt câu hỏi cho học viên
Trên phương diện thực hành, xin tóm lược vài điểm cốt yếu khi đặt câu hỏi cho học viên (nhất là đối với học viên nhỏ tuổi) :
- Câu hỏi phải sáng sủa, đừng hàm hồ (Thí dụ : Đừng đặt câu hỏi ‘Có bó buộc phải dự lễ không?’...).
- Câu hỏi phải đơn giản, đừng gộp hai ba vấn đề vào một câu (Thí dụ : đừng đặt câu hỏi ‘Chúa sinh ra ở đâu, hồi nào, có ai đến viếng kèm theo biến cố gì xảy ra trên trời ? ‘...).
- Câu hỏi phải cụ thể, đừng chung chung (Thí dụ : đừng đặt câu hỏi ‘Em hiểu biết những gì về Thiên Chúa ?’...)
- Đừng cố tình đặt câu hỏi ‘quái gở’ để gài bẩy các em (Thí dụ : ‘Tại sao Thiên Chúa có bốn ngôi ?’...).
- Không nên chỉ hỏi những học viên giỏi hoặc một số học viên nào nhất định.
- Thường phải đặt câu trước cho cả lớp nghe, sau đó mới nhờ một em trả lời (tất cả sẽ chú ý hơn). Nếu câu trả lời chưa hoàn hảo, tiếp tục em thứ hai thứ ba bổ túc.
- Cấm tuyệt đối việc cười cợt hay chế giễu một câu trả lời sai ; ngược lại phải nhấn mạnh và khen tặng những chổ đúng của các em (dù chưa hoàn toán hoặc chỉ đúng dưới một khía cạnh nào, với một điều kiện nào ...).
# Tóm lại : Các câu hỏi của Giáo Lý Viên điều phải hướng về đề tài bài Giáo Lý. Các đáp ứng đúng đều nằm trong nội dung của bài đó. Cũng chính các câu hỏi này cũng có tác dụng dẫn các em đến việc chú ý nghe lời Chúa ở bước tiếp theo.
2- Học viên đặt câu hỏi
a/. Giáo Lý Viên tiếp nhận câu hỏi :
Trước hết phải có thái độ cởi mở, đón nhận. Phải làm cho các học viên thấy rằng mình biết lắng nghe và biết lưu tâm đến những ưu tư của các em, nhìn nhận giá trị của các em.
Không cần thiết phải trả lời ngay lập tức. Đó là biểu hiện ‘tự vệ’, sợ bị ‘bí’, cố gắng làm cho người hỏi phải ‘đầu hàng’ ngay, không còn gì để nói nữa. Ngoài ra, trả lời mà không có thời gian suy nghĩ thường là không đầy đủ và thiếu chính xác.
Phải đào sâu câu hỏi để tìm gặp tâm tư của người đặt câu hỏi. Đối với các em, câu trả lời đúng không hẳn là câu trả lời mau lẹ nhưng là câu trả lời trong đó các em cảm nhận nhận rằng : nó phát xuất từ đấy lòng của Giáo Lý Viên.
# Tóm lại : phải tạo nên một bầu khí tín nhiệm, thông hiệp và đối thoại, cùng nhau suy nghĩ tìm hiểu và soi sáng lẫn nhau chứ không phải là diễn đàn để ‘trổ tài đấu lý’.
- Giải thích rõ thêm câu hỏi :
Nhiều khi các học viên chưa quen diễn tả ý nghĩ của mình nên những câu hỏi được đặt ra còn vụng về và thiếu mạch lạc. Giáo Lý Viên phải phân tích, gạn lọc, sắp xếp và trình bày lại cho gẫy gọn và dễ hiểu. Đó là cách vừa giúp cho các em hiểu rõ câu hỏi vừa giúp các em biết cách đặt câu hỏi. Cũng có khi Giáo Lý Viên hỏi lại các em đó hoặc gợi ý để các em có thể từng bước xác minh ý nghĩ của mình và nổi bật lên vấn đề chính mà các muốn nêu ra.
b/. Giáo Lý Viên giải đáp :
- Phân loại câu hỏi : Trước khi giải đáp câu hỏi cần phải nhận định rõ câu hỏi này thuộc loại nào vì mỗi loại câu hỏi có cách giải thích riêng.
+ Câu hỏi nêu lên một vấn đề.
Câu hỏi này có nguyên nhân là do thiếu kiến thức, vì không biết hoặc biết chưa đầy đủ.
+ Câu hỏi gợi lên một mầu nhiệm.
Đây là loại câu hỏi khó giải đáp nhất, đưa đi rất xa đối với các lý luận trực tiếp bình thường. Vì liên quan đến mầu nhiệm, những chân lý đức tin mà con người không thể nào thấu đạt bằng kiến thức nhân loại.
+ Câu hỏi có dụng ý trêu chọc.
Những câu hỏi này thường ngoài vấn đề, thiếu nghiêm túc, thiếu xác tín hoặc là có ý ‘gài bẫy’...
- Giải đáp câu hỏi : Khi đã phân loại chính xác các dấu hỏi của học viên, Giáo Lý Viên có thể dễ dàng biết ngay mình sẽ trả lời cho các em theo hướng nào.
+ Câu hỏi nêu lên một vấn đề.
Với loại này, việc giải hết sức đơn giản là truyền thông kiến thức (do đó, điều kiện có đủ kiến thức tôn giáo của Giáo Lý Viên sẽ đứng hàng ưu tiên ở đây).
+ Câu hỏi gợi lên một mầu nhiệm.
Vẫn phải có một ít lý luận để thoả mãn phần nào cho lý trí, nhưng quan trọng hơn vẫn là :
• Sửa chữa, uốn nắn những sai lầm, ngộ nhận và thành kiến.
• Trình bày cho các em thấy những chứng từ, những kinh nghiệm sống của mình hoặc của người khác đã phấn đấu, khắc phục những khó khăn tương tự như thế nào (Điều này lại đòi hỏi nơi Giáo Lý Viên kinh nghiệm sống, vốn sống và kiến thức xã hội).
• Giúp cho các em hiểu : Có những điều mà trí khôn không thể với tới nên không thể trình bày và lãnh hội một cách minh bạch được. Những khó khăn thắc mắc đó chỉ có thể giải tỏa được bằng một đời sống trung tín trong đức tin và cầu nguyện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
+ Câu hỏi có dụng ý trêu chọc.
Với câu hỏi loại này, một mặt Giáo Lý Viên phải xem lại cách dạy của mình : có phù hợp với trình độ và sở thích của học viên không, đề tài có gần gũi và lay động các em không, phân chia giờ giấc có phù hợp không ... Khiến các em chán ngán, mệt mỏi, muốn giải trí ; Mặt khác cũng phải giải quyết vấn đề cho các em. Có hai cách giải quyết : Né tránh và đối phó.
• Né tránh : Nếu trường hợp không đủ giờ hoặc vì lý do gì khác, Giáo Lý Viên muốn né tránh vấn đề thì hứa sẽ trả lời chung cho cả lớp vào dịp khác hoặc sẽ trả lời riêng cho em đó, nếu em muốn.
• Đối phó : Nếu có thời giờ, hoặc vì muốn ngầm nhắc nhở học viên đó, có thể đối phó bằng cách hỏi lại chính em đó : ‘Nếu người khác hỏi em như thế, em sẽ trả lời thế nào ?...’ (Thông thường, với loại câu hỏi này ta nên lẫn tránh thì tốt hơn để đỡ làm mất giờ hoặc bị rơi vào ‘bẫy’ của các em).
* Vài lưu ý trong việc giải đáp câu hỏi
• Không nên trả lời hết mọi câu hỏi : Ngày xưa Chúa Giêsu cũng đã từng từ chối trả lời các kỳ mục và thượng tế : ‘Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền gì mà làm các điều ấy’ (Mt 21.27).
Các em khi đã quen với Giáo Lý Viên sẽ đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi các loại. Một mặt dặn dò các em chỉ hỏi những câu trong bài, còn những câu hỏi ngoài lề hoặc có tính cách riêng tư thì không nên đặc ra trong buổi học chung. Một mặt Giáo Lý Viên nên theo nguyên tắc : Chỉ trả lời những câu hỏi làm tăng thêm hiểu biết về chân lý mạc khải và ích lợi hoặc liên quan đến đa số học viên.
• Loại câu hỏi nêu lên một vấn đề thì khác một chút so với hai loại kia : nếu thật sự mình chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ thì nên nhận là chưa biết và hứa lần tới sẽ giải đáp sau khi đã tra cứu hoặc tham khảo ý kiến ... Tuy nhiên nên nhớ các học viên hay thần tượng hoá Giáo Lý Viên của mình và đòi hỏi Giáo Lý Viên phải có một hiểu biết sâu rộng và giải đáp những thắc mắc của các em, do đó các em rất khó chấp nhận một Giáo Lý Viên không biết điều mà các em hỏi.
• Trong trường hợp Giáo Lý Viên phát hiện ra lần trước mình đã trả lời sai cho các em thì phải càng sớm càng tốt đính chính lại. Việc này cấp thiết như một nhiệm vụ phải chu toàn bằng mọi giá. Nhẹ hơn một chút : Nếu lần trước trả lời còn thiếu, lần này nên bổ sung thêm. Cuối cùng là đừng quên xin lỗi các em.
IV. SINH HOẠT TRONG BÀI GIÁO LÝ
Trong một bài giáo lý có nhiều cách sinh hoạt, xin trình bày vài cách sau đây, được phân thành ba loại :
- Sinh hoạt từng học viên chung cho cả lớp.
- Sinh hoạt do một học viên làm thay cho cả lớp.
- Sinh hoạt theo từng phân nhóm.
1- Sinh hoạt từng học viên chung cho cả lớp
- Hát (hoặc nghe băng) một bài hát về đề tài đang học hỏi.
- Xem một tấm hình (bản đồ, phong cảnh, di tích lịch sử, đồ vật, người...) rồi chú thích hoặc nhận xét, nêu ý kiến.
- Cắt dán, vẽ sáng tác, phóng tác theo chủ đề hoặc vẽ bản đồ.
- Đặt câu hỏi cho học viên trả lời cho các em về nhà suy nghĩ.
- Kể một câu chuyện, yêu cầu học viên rút ra bài học, ý kiến, nhận xét, cảm tưởng...
- Bổ túc (hoặc sắp xếp lại) một câu Thánh Kinh, một lời nguyện, một đoạn Giáo Lý.
- Sáng tác một lời nguyện.
- Câu đố hoặc trò chơi Giáo Lý (phân biệt các hoạt động của xác và hồn hay tìm những nhân đức đối chọi với một tật xấu ...).
2- Sinh hoạt theo từng phân nhóm
- Mỗi nhóm soạn một lời nguyện (chủ đề có thể như nhau hoặc khác nhau).
- Mỗi nhóm vẽ một tấm ảnh lớn về chủ đề Giáo Lý.
- Mỗi nhóm chia vai nhau đối thoại theo kiểu Bài Thương Khó diễn một cảnh trong Phúc Âm.
- Mỗi nhóm tìm (trong Phúc Âm) một câu nói của Chúa Giêsu về một chủ đề.
- Làm lịch bổn mạng nhóm : Hình thánh bổn mạng, tên thánh bổn mạng, ngày kính, tên của học viên có Thánh bổn mạng đó ... rồi sắp xếp theo thứ tự từng tháng, đóng thành tập ... để dễ nhớ ngày mừng bổn mạng nhau.
- Làm tập ảnh : Mỗi nhóm tìm các hình liên quan đến một Bí Tích (một điều răng hay một mối phúc thật ... ) rồi dán vào tập. Nó có tính cách như một bộ sưu tập ...
3- Sinh hoạt do một học viên làm thay cả lớp
- Một học viên đọc một đoạn Thánh kinh (hay một đoạn sách) rồi tóm tắc ý chính.
- Một học viên tìm một hai câu Kinh thánh phù hợp với chủ đề Giáo Lý.
- Một học viên kể chuyện cho cả lớp nghe (Chuyện em nghe, em thấy hoặc đọc được).
- Một học viên cho biết ý kiến về bài Giáo Lý hay đoạn nào, điểm nào trong bài làm em chú ý và thích thú nhất, tại sao ?.
- Một học vên thay mặt cả lớp cầu nguyện lớn tiếng hoặc đề nghị một áp dụng thực tế.
# Lưu ý :
- Còn nhiều loại hình sinh hoạt khác nữa, nhưng phải làm sao hợp với hoàn cảnh cụ thể và chủ đích tôn giáo của bài Giáo Lý.
- Sinh hoạt trong bài Giáo Lý nhằm giúp cho học viên áp dụng điều đã học vào thực tế cuộc sống (đồng hoá), chứ không phải nhằm mua vui, giải trí. Nên tránh đừng để giờ Giáo Lý quá vui nhộn làm mất đi tính chất trang nghiêm tôn giáo, làm thiệt thòi cho nội dung bài giảng.
Chương hai
VÀI HÌNH THỨC TƯƠNG ĐƯƠNG BÀI GIÁO LÝ
Có vài hình thức sinh hoạt khác mà thời gian sinh hoạt cũng ngang bằng với một giờ Giáo Lý và tác dụng của nó cũng y hệt như thế, xin được trình bày :
- Lứa tuổi lớn : Thuyết trình, họp nhóm, hội thảo ...
- Lứa tuổi nhỏ : Đố vui, trò chơi, diễn kịch, hoạt cảnh ...
I. THUYẾT TRÌNH
Thuyết trình là một người trình bày nội dung một vấn đề cho một chủ tọa. Phương pháp này rất thông dụng trong khoa sư phạm. Nhưng thuyết trình Giáo Lý còn đòi hỏi cao hơn : Nó không chỉ nhằm truyền thông kiến thức mà còn loan Tin Mừng, để Tin Mừng này thấm nhập vào tâm hồn con người và biến đổi con người.
Do đó thuyết trình Giáo Lý phải :
- Theo diễn trình cụ thể.
- Gây phản ứng nơi cử toạ.
- Giúp suy tư và đồng hóa cá nhân.
1- Theo diễn trình cụ thể
Ngoài việc trình bày một chân lý, thuyết trình viên còn phải cố gắng tạo nên một cảm nghiệm, một tương quan, một sự hiệp thông giữa cử tọa với Thiên Chúa. Bởi vậy, trước khi thuyết trình Giáo Lý Viên hãy tìm hiểu kỹ tâm tư của các em, những lo âu và khát vọng của chúng... Sau đó mới đi hai bước tiếp theo :
- Chỉ cho các học viên thấy rằng : giải quyết vấn đề bằng kiểu nhìn trần tục thôi vẫn chưa đủ, vì những khó khăn có thể bị đẩy lùi nhưng vẫn tồn tại.
- Giúp cho các em nhận ra sự mới mẻ của Tin Mừng : Một mặt, Tin Mừng đảo lộn những dự định và cách nhìn của ta, đôi khi còn làm ta hụt hẫng, chới với... nhưng một mặt Tin Mừng lại cũng đáp ứng mọi ước vọng sâu xa của ta, khai thác mọi tiềm năng và giúp ta phát triển tối đa.
2- Gây phản ứng nơi cử tọa
Thuyết trình là hình thức độc thoại nên người nghe dễ bị thụ động. Để tránh nhược điểm đó, Giáo Lý Viên nên gây phản ứng cho các học viên của mình, làm cho chúng thích thú :
- Cho các em xem một tấm hình hay bức họa rồi để các em nhận xét hay ý kiến gì về ý nghĩa, hoặc bức ảnh đó gợi lên điều gì...
- Đưa ra hay nhắc lại một câu danh ngôn nào đó phù hợp với chủ đề mà ta đang thuyết trình rồi cho các em bình luận.
- Yêu cầu một học viên lược tóm đoạn vừa trình bày, sẽ rất thú vị nếu các em thật sự hiểu và trình bày lại vấn đề bằng ngôn ngữ của trẻ thơ.
- Lược tóm bằng hình vẽ, sơ đồ, thống kê...lên bảng. Giúp cụ thể hóa vấn đề và giúp các em dễ nhớ, dễ theo dõi.
- Trắc nghiệm.
3- Giúp suy tư và đồng hóa cá nhân
Vật dụng hữu ích nhất cho việc nầy là tập vở. Các em có thể ghi lại :
- Bản lược tóm ngắn gọn (do Giáo Lý Viên soạn và đọc cho chép). Đây là một văn bản súc tích làm khởi điểm cho những suy tư của cá nhân học viên đó.
- Những cảm nghĩ riêng tư và những khám phá của học viên. Trong phần nầy, các học viên cũng có thể ghi những sự kiện mình biết mà phù hợp với đề tài hay những câu Kinh Thánh để dẫn chứng. Ngoài ra các em cũng có thể ghi cả những thắc mắc chưa giải quyết được... Như vậy các em có dịp đối chiếu những ý nghĩ của mình. Đó chính là bước đầu của sự đồng hoá. Sau này, những sinh hoạt phụng vụ và tông đồ sẽ giúp các học viên đồng hoá được nhiều hơn nữa ... .
II. HỌP NHÓM
Giáo Lý Viên đưa ra một vấn đề dưới hình thức một câu hỏi. Các học viên chia thành từng nhóm bảy tám em cùng trao đổi, suy nghĩ về câu hỏi đó. Sau đó tất cả gom lại thông báo cho nhau kết quả trao đổi của nhóm mình rồi thảo luận chung. Giáo Lý Viên tổng hợp lại, làm nổi bật những ý hay, bổ túc hoặc đưa ra lời giải đáp cuối cùng cho vấn đề đã thảo luận.
1- Chuẩn bị
a/. Tìm câu hỏi :
- Khởi điểm là một trường hợp, một sự kiện hay một câu hỏi được Giáo Lý Viên nêu ra. Mục đích là gây thắc mắc để thảo luận và tìm ra lời giải đáp.
- Câu hỏi đó phải thật sự liên quan rất nhiều đến các em, đồng thời Giáo Lý Viên phải có sẵn lời giải đáp chính xác và sâu sắc.
- Trong muôn mặt của vấn đề, Giáo Lý Viên chỉ nên chọn một và đi thẳng vào những ước vọng, nhu cầu hay khó khăn của các em ở lứa tuổi đó.
- Cũng rất tốt nếu trước đó Giáo Lý Viên có thể tiếp xúc trước với một số em để biết được những dữ kiện làm nền tảng cho câu hỏi.
b/. Đặt câu hỏi :
- Vấn đề thì bình thường, nhưng cách nêu vấn đề cần phải có hình thức mới lạ, bí ẩn, sắc bén, và đôi khi bi thảm nữa để gây phản ứng.
- Câu hỏi có thề được nêu bằng lời nói, bằng chữ viết; hoặc nêu bằng một hình ảnh, một đoạn phim, một cột báo hay một biến cố có tính thời sự.
- Dù dưới hình thức nào, câu hỏi cũng phải hội đủ hai điều kiện : Hướng về tôn giáo và có một lời giải đáp xác đáng.
2- Trao đổi từng nhóm
- Chia thành từng nhóm để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người điều phát biểu ý kiến và xác định quan điểm của mình.
- Mỗi nhóm bầu ra một nhóm trưởng điều hành và sinh hoạt ; Khuyến khích mọi thành viên trong nhóm phát biểu ý kiến hoặc đưa cuộc trao đổi trở lại vấn đề chính.
- Mỗi nhóm cũng phải có một thư ký ghi lại những ý kiến đã phát biểu rồi tổng hợp lại để tường trình cho các nhóm khác trong cuộc họp chung.
- Đây chưa phải lúc đối chiếu các quan điểm mà chỉ là thu thập các ý kiến và cách nhìn nhận vấn đề. Ở đây, điều quan trọng là mọi tham dự viên điều cởi mở nói lên ý nghĩ của mình đồng thời biết lắng nghe ý kiến người khác, dù mình không đồng ý (Điều này không dễ đâu, nhất là trong những lần đầu !)
3- Họp chung
Sau khi trao đổi từng nhóm xong, tất cả sẽ họp chung để làm ba việc sau đây :
a/. Tường trình :
Thư ký của mỗi nhóm lên thông báo cho các nhóm khác về kết quả cuộc trao đổi của nhóm mình.
- Không phải thuật lại hết từng ý kiến một theo thứ tự nhưng phải phân loại và tổng hợp thành bốn điểm :
+ Tình hình chung của cuộc trao đổi nhóm.
+ Những vấn đề đã trao đổi.
+ Các ý kiến phân thành mấy loại (tóm tắt từng loại)
+ Những điểm nổi bật đáng chú ý trong cuộc trao đổi.
- Người trình bày sau không cần nhắc lại những gì người trước đã nói. (Có thể nói :
+ Nhóm tôi đồng ý với các nhóm trước về điểm ...
+ Xin bổ sung thêm những điểm này ...
+ Có quan niện hơi khác [ hoặc ngược lại về ...]).
b/. Thảo luận chung :
Trong khi các nhóm tường trình, Giáo Lý Viên nên ghi lại (tốt nhất là ghi lên bảng) theo từng loại :
- Những ý kiến có sự thoả thuận rộng rải.
- Những ý kiến còn mơ hồ cần bổ túc.
- Những ý kiến khác biệt nhau.
Sau đó mời tất cả cùng thảo luận (quan tâm đến hai loại phía sau).
c/. Đúc kết :
Thảo luận xong, Giáo Lý Viên tổng hợp các ý kiến lại một cách mạch lạc, đánh giá những ý kiến đó và làm nổi bật những ý kiến góp phần giải đáp vấn đề, cuối cùng là tóm lược lời giải đáp bằng một câu ngắn gọn. Tức là Giáo Lý Viên phải làm bốn việc :
- Đào sâu những nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi của học viên.
- Chấp nhận và xác định những ý kiến đúng.
- Lưu ý học viên những khía cạnh chưa ai để ý tới.
- Đúc kết thành một công thức dể hiểu và ngắn gọn.
4- Vài lưu ý
- Đôi khi cuộc thảo luận lúc họp chung bị lạc đề hoặc rối loạn . . . Ngoài khả năng tự chủ và hiểu biết sâu rộng, Giáo Lý Viên còn phải có một kỷ luật chặt chẽ để mọi người đều được phát biểu và mọi lời phát biểu đều có lợi cho mọi người.
- Kết quả của hình thức họp nhóm này tùy thuộc vào hai yếu tố : Sự đóng góp tích cực, chân thành của mỗi tham dự viên và sự hướng dẫn khéo léo, đúc kết chính xác của Giáo Lý Viên.
- Hình thức này đòi hỏi sự trưởng thành về suy luận và một kỷ luật tự nguyện nơi các tham dự viên.
Do đó, họp nhóm khó có thể áp dụng cho các học viên nhỏ tuổi hay yếu kém về kiến thức và khả năng suy nghĩ, hoặc chưa quen làm việc chung với nhau.
III. HỘI THẢO
Hội thảo có rất nhiều hình thức, nhưng ở đây chỉ đề cập đến hình thức thông dụng và đơn giản nhất được gọi là ‘panol’.
- Panol là một cuộc trao đổi giữa một nhóm người (gọi là hội thảo viên) trước một cử tọa về những kinh nghiệm bản thân, những quan điểm hoặc những cảm nghĩ của mình về một vấn đề nào đó.
- Theo đó, để trở thành một Panol cần phải có những điều kiện sau đây :
* Các hội thảo viên có những quan điểm khác nhau, nhưng đều có thể chấp nhận được và đem ra hội thảo.
* Cử toạ có quyền phát biểu cảm nghĩ của mình và có thể căn cứ vào những điều do các hội thảo viên trình bày để duyệt lại quan điểm riêng của mình.
1- Hội thảo Giáo Lý
Khi áp dụng Panol vào Giáo Lý, hội thảo không những chỉ là cơ hội để đối chiếu nhiều quan điểm khác nhau mà còn là một phương thức loan truyền Tin Mừng thiết thực với nhiều ưu điểm.
- Mọi tín hữu đều chấp nhận Lời Chúa và đức tin như nhau (vì trên một nền tảng chung), nhưng khi áp dụng vào hoàn cảnh và lĩnh vực cụ thể thì mỗi người đều có thái độ và sự lựa chọn khác biệt nhau. Hội thảo làm vọt lên những lý do của sự lựa chọn đó.
- Mỗi người đều được duyệt lại quan điểm của mình và được đối chiếu với các quan điểm khác nên sẽ thêm sáng suốt và xác tín hơn về lựa chọn của mình.
- Hội thảo còn là lớp học của thái độ lắng nghe, thông cảm, hiểu biết, tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt lẫn nhau song song với việc mở rộng kiến thức.
2- Diễn tiến cuộc hội thảo
a/. Chuẩn bị :
Trước ngày hội thảo, Giáo Lý Viên chọn một số học viên tình nguyện làm hội thảo viên. Cắt nghĩa hội thảo viên là gì ? Giải thích sơ lược đề tài hội thảo.
b/. Hội thảo viên :
Trong thời gian chuẩn bị, mỗi hội thảo viên phải suy nghĩ về lập trường của mình và những lý luận và bằng chứng để bảo vệ nó. (Có thể tham khảo ý kiến cha mẹ, thầy cô, bạn bè hoặc bất cứ ai). Nghĩa là phải : Hiểu rõ đề tài - Xác định quan điểm riêng của mình - Dùng lý lẽ, sự kiện và ví dụ để người khác có thể hiểu sự lựa chọn của mình.
c/. Phòng ốc :
Số hội thảo viên nên từ 6-8 trở lên (số chẵn). Hướng dẫn viên ngồi đối diện với cử tọa. Các hội thảo viên ngồi thành hai dãy đối diện nhau, không song song nhưng tạo thành một góc có đỉnh là hướng dẫn viên. Nên để những hội thảo viên nhút nhát ngồi gần hướng dẫn viên.
d/. Hướng dẫn viên :
Vai trò của hướng dẫn viên trong buổi họp hội thảo cũng giống như trong buổi họp nhóm : Tạo cơ hội cho mọi người phát biểu ý kiến, yêu cầu người phát biểu giải thích thêm ý kiến của mình hoặc trưng bằng chứng ; ví dụ cụ thể, hướng cuộc thảo luận và những điểm mới hoặc trở lại đề tài chính, phân chia giờ cho hợp lý.
Giáo Lý Viên có thể làm hướng dẫn viên hoặc mời một người khác cũng được để thêm phần khách quan, vô tư.
e/. Chia giờ trong buổi họp hội thảo :
- Hướng dẫn viên trình bày vấn đề : 5 phút.
- Các hội thảo viên thảo luận : 30 phút.
- Cử toạ đặt câu hỏi với hội thảo viên : 20 phút.
- Hướng dẫn viên kết luận : 5 phút.
Trong phần kết luận Giáo Lý Viên làm hai việc :
* Nhận định về mỗi lập trường : ưu điểm + giới hạn.
* Làm nổi bật những lý do biện minh và nền tảng đức tin của mỗi lập trường.
IV. ĐỐ VUI GIÁO LÝ
Nhằm kiểm tra học lực của học viên đồng thời tạo tinh thần thi đua học hỏi, chúng ta có thể tổ chức những cuộc thi ‘vui mà học, học mà vui’ gọi là đố vui Giáo Lý giữa các đội trong một lớp, giữa các lớp trong một họ đạo, giữa các họ đạo trong một hạt hay rộng hơn nữa . .
1- Cách tổ chức :
a/. Trước cuộc thi :
- Soạn câu hỏi.
- Mời người điều khiển (có thể chính là Giáo Lý Viên ).
- Mời vài giám khảo (cho biết trước câu hỏi và đáp án).
- Phòng ốc, bàn ghế.
- Chuông hoặc những mảnh thăm xếp nhỏ (tùy hình thức).
- Bảng để ghi điểm số.
b/. Trong cuộc thi :
Phải qui định trước một số luật lệ :
- Ấn định số người thi trong một nhóm, có được thay không ? Lúc nào ? .
- Ấn định số điểm cho mỗi câu hỏi.
- Ấn định thời gian trả lời cho mỗi câu hỏi.
- Có quyền bổ sung câu trả lời không ? Mấy lần ? Điểm ?
- Trả lời sai thì sao ?
(Ngoài ra, tùy theo hình thức tổ chức - bốc thăm - hái hoa dân chủ hay nghe đặt câu hỏi rồi bấm chuông ... mà chúng ta có thể quy định thêm những luật lệ để chế tài cho phù hợp với từng hình thức).
Để cho bầu không khí thêm sinh động, vui tươi, nên động viên khán thính giả vỗ tay tán thưởng những câu nói đúng, bắt đầu một bài hát hoặc cho biết điểm số sơ khởi...
2- Cách đặt câu hỏi
Dùng chính những câu hỏi trong sách Giáo Lý của các em cũng được, nhưng để kích thích trí thông minh, nhạy bén và thận trọng của học viên, cũng nên mở rộng những ‘câu hỏi thi đua’.
- Câu hỏi tổng hợp (‘Tên mẹ Chúa Giêsu là gì ? Tại sao bà được gọi là Mẹ Thiên Chúa’...).
- Câu hỏi sắp xếp (thứ tự thời gian các nhân vật, biến cố ...)
- Câu hỏi lựa chọn (chọn 12 tên thánh Tông Đồ trong một dãy tên nhân vật ...)
- Câu hỏi giải quyết một tình huống cụ thể.
- Câu hỏi đòi hỏi trí nhớ (Câu đó trong bài học nào hoặc Thánh ký nào ghi lại ? Chương mấy ? ... Tiếp theo câu đó hay trước câu đó là gì?...)
- Câu hỏi suy luận (‘Tổ phụ Abraham có bao nhiêu cháu nội ? ...’)
- Câu hỏi áp dụng (‘Chúa Giêsu chữa lành 10 người cùi mà chỉ có một người đến cám ơn Chúa. Điều đó dạy cho em bài học gì ? ...’)
- Câu hỏi thực hành (‘Em hãy phát biểu một lời cầu nguyện tự phát, xin Chúa chúc lành cho Cha Sở’).
- Câu hỏi đánh lạc hướng (‘Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình chim bồ câu đậu xuống các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ tuần ?’...)
- Câu hỏi có vật dụng bên ngoài phụ họa (‘Hãy chỉ Thành Bêlem nơi Chúa Giêsu sinh ra trên bản đồ nước Do Thái’...)
3- Lưu ý
- Còn rất nhiều cách đặt câu hỏi khác nữa tùy sáng kiến của Giáo Lý Viên và trình độ của học viên, nhưng trong mọi trường hợp câu hỏi phải luôn luôn có một đáp án đúng duy nhất.
- Khi tổ chức thi nên nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, ham học hỏi và mở mang kiến thức chứ không phải vì tính hiếu thắng, thích hơn thua để gây căng thẳng bất hoà ...
- Hiện nay, đài truyền hình đang phát chương trình ‘Bảy sắc cầu vồng’. Là một áp dụng rất thành công hình thức này. Chúng ta có thể theo dõi và tham khảo.
V. TRÒ CHƠI GIÁO LÝ
Đối với trẻ em, trò chơi mang tính giáo dục rất cao và phong phú. Hơn nữa, trong khi chơi, trẻ biểu lộ cung cách sống, con người thật và cả tình trạng sức khỏe nữa.
1- Phân loại trò chơi
- Dựa theo yêu cầu (trò chơi sáng tạo, vận động, thể thao ...)
- Dựa theo động tác (trò chơi luyện kỹ năng nghe, quan sát, trí nhớ, sự khéo léo tay chân...)
- Dựa trên sự vận động (trò chơi vận động : động - tĩnh...)
- Dựa trên số lượng người chơi (trò chơi cá nhân - đồng đội).
- Dựa vào nơi chốn (trò chơi ngoài trời - trong phòng ...)
2- Lựa chọn trò chơi
Đối với Giáo Lý, ý nghĩa và tác dụng của trò chơi phải đáp ứng được yêu cầu của việc dạy Giáo Lý. Bởi đó khi lựa chọn trò chơi Giáo Lý phải lưu ý vài đặc điểm sau để lựa chọn :
- Tùy hoàn cảnh :
+ Nơi chốn : Trong lớp hay ngoài trời.
+ Số người : Lớp đông hay ít.
+ Độ tuổi : Lớp lớn hay lớp nhỏ.
+ Phái tính : Nam hay nữ (hoặc tất cả).
- Tùy theo tác dụng của trò chơi :
+ Vui, linh hoạt nhưng đừng quá nhiều sức lực (kẻo học viên bị mệt).
+ Chọn những trò chơi mà tất cả lớp cùng tham gia.
+ Chọn những trò chơi gần gũi hoặc minh họa cho đề tài Giáo Lý (nói về tình bác ái nên chơi trò tải thương, cứu thương thay vì chơi trò bắn súng...)
- Tùy theo yêu cầu của việc giảng dạy Giáo Lý.
+ Minh họa cho bài Giáo Lý.
+ Xả hơi giữa hai buổi học, hội.
+ Rèn luyện kỹ năng nhân bản.
3- Hướng dẫn trò chơi (quản trò)
Sự thành công hay thất bại của một trò chơi tùy thộc rất nhiều vào nghệ thuật trình bày và cách tổ chức của quản trò.
-Trình bài trò chơi.
+ Chọn và nắm vững trò chơi.
+ Chuẩn bị điạ điểm và vật dụng (nếu có).
+ Giới thiệu, giải thích chậm rãi và rõ ràng cho các em hiểu cách chơi, diễn tiến và luật lệ.
- Hướng dẫn trò chơi :
+ Phải công bằng, đề cao kỷ luật và tôn trọng tập thể cũng như trọng tài (nhất là người bị phạt).
+ Khích lệ những người còn e ngại, chưa nhập cuộc.
+ Kết thúc trò chơi lúc đang hứng khởi nhất.
VI. DIỄN KỊCH - HOẠT CẢNH
So với một bài Giáo Lý thì hình thức này giáo dục bằng thị giác hơn là thích giác. Nó làm sống lại những gì đã học được nhờ đó nhớ lâu hơn và hiểu rõ hơn.
1- Vài hình thức
Tùy theo khả năng và nơi chốn mà ta có thể sử dụng các hình thức khác nhau :
- Giáo Lý Viên viết kịch bản rồi tập dợt cho các học viên ; hoặc các học viên tự làm lấy, Giáo Lý Viên duyệt trước khi diễn.
- Các diễn viên có thể đối thoại trực tiếp bằng lời nói khác nhau (kịch nói) hay chỉ làm những cử điệu dễ hiểu (kịch câm) hay chỉ ra điệu bộ, người khác ở trong hậu trường đọc lời đối thoại (hoạt cảnh).
- Hoạt cảnh hoạt diễn kịch bằng bóng (buổi tối) : Các nhân vật đứng bên trong màn, hình ảnh và cử điệu nổi lên trên màn nhờ một bóng đèn pha. Người xem chỉ thấy bóng các nhân vật.
2- Vài hình thức
- Các diễn viên đóng các vai Chúa, Đức Mẹ, các Thánh ... nên nghiêm trang tề chỉnh, không nên giễu cợt làm mất sự tôn kính.
- Các buổi diễn này thường ồn ào, gây mất trật tự, cần phải có sự chuẩn bị tập dợt trước.
- Một kinh nghiệm riêng : Các em được chọn làm diễn viên rất thích được hóa trang. Giáo Lý Viên nên nhắc nhở và kiểm tra các em, đừng quan trọng quá nó, chỉ nên đơn giản thôi (nếu không tự các em hoá trang sẽ rất kỳ dị, cổ quái, không xứng hợp).
Chương ba
TRƯỚC VÀ SAU MỘT BÀI GIÁO LÝ
I. TRƯỚC MỘT BÀI GIÁO LÝ
Dạy Giáo Lý cũng không phải là một công việc không đi ngoài quy luật chung : Muốn gặt hái được thành quả (hoặc ít ra là để hạn chế bớt sự thất bại) cho công việc gì, cần phải có sự chuẩn bị. Kết quả và chất lượng của công việc phụ thuộc rất nhiều vào thời gian chuẩn bị này.
1- Chuẩn bị xa
a/. Tìm hiểu thính giả :
‘Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng’ (Tôn Tử).
Trước khi dạy Giáo Lý, Giáo Lý Viên cũng nên tìm hiểu kỹ lưỡng các học viên của mình về mọi phương diện nhưng cần lưu ý nhất các mặt : môi trường sống, nền giáo dục, lứa tuổi và tâm lý của lứa tuổi ... Sẽ tốt hơn biết mấy, nếu sự hiểu biết đó đi sâu đến từng học viên một.
b/. Cầu nguyện :
‘Không có Thầy chúng con không làm gì được’ (Jn 15.5 )
Cầu nguyện cho các em học viên của mình hiều và thực hành được điều mình giảng và cầu nguyện cho chính mình nữa để mình giảng cho các em đúng những điều mà Thiên Chúa muốn nói với các em.
2- Phác họa chương trình chung
Mỗi bài Giáo Lý là một phần của chương trình chung kéo dài có thể từ ba tháng đến một năm. Về phía Giáo Lý Viên cũng cần biết rằng mình sẽ đưa các em tới đâu ; còn các học viên, càng lớn thì đòi hỏi về mặt tri thức càng cao : Các em cũng muốn biết sẽ học hỏi những điều gì, những gì tiếp theo sẽ được đề cập tới và liên quan thế nào với nhau...
Hiện nay, Giáo Lý Viên thường ít làm việc này vì chương trình chung đã được phác họa từ trước trong các giáo trình in sẵn. Tuy nhiên, cũng nên nghiên cứu kỹ lưỡng trước để hiểu thấu được ý của người soạn chương trình (mục đích, sự tiến triển của chương trình...). Nhưng một khi phải đụng đến nó để khỏi lúng túng, chúng ta nên phác họa theo một trong hai hướng như sau (tùy theo những gì mà chúng ta biết được ở phần tìm hiểu thính giả ở trên) :
a/. Chương trình chung được phác họa dựa trên nhu cầu luận lý trừu tượng :
- Hướng này thường sử dụng phương pháp diễn dịch của thần học, chỉ thỏa mãn những đòi hỏi của lý trí chứ không lay động tâm hồn, chỉ phù hợp với các em lớn, người lớn hoặc những ai quen suy luận.
- Thí dụ : Nói về Giáo Hội, theo hướng này, chúng ta sẽ phác họa như sau :
* Mầu nhiệm Giáo Hội (thành lập - bản chất - đặc tính ...)
* Sứ mạng của Giáo Hội (truyền giảng - thánh hoá - quản trị ...)
b/. Chương trình chung được phác họa dựa trên nhu cầu tâm lý cụ thể :
- Hướng này cách trình bày tuy không chặt chẽ bằng hướng thứ nhất nhưng thực tế và phù hợp với tâm lý thanh thiếu niên muốn biết vấn đề liên quan đến mình như thế nào ... Cách trình bày này thiên về nghệ thuật hơn kỹ thuật.
- Thí dụ : Cũng với đề tài Giáo Hội, chúng ta sẽ phát họa như sau :
* Chúng ta (và mọi người) nghĩ gì về Giáo Hội, có đúng với ý định của Thiên Chúa không, thật sự Giáo Hội là gì ? ...
* Chúng ta tham dự vào Giáo Hội như thế nào, làm gì trong Giáo Hội, giúp ích gì cho Giáo Hội ? ...
* Giáo Hội giúp ích gì cho chúng ta, cho con người, cho xã hội, cho thế giới ?...
* Các thành phần trong Giáo Hội khác nhau thế nào, có cần đến nhau không, có bổ túc cho nhau không ?...
* Những người chưa gia nhập Giáo Hội thì sao ?...
* Tại sao Công đồng Vatican II đòi phải ‘trẻ hóa và canh tân Giáo Hội’ ?...
3- Chuẩn bị gần
a/. Soạn bài Giáo Lý :
- Cần phải nắm vững ba yếu tố sau đây để soạn một bài Giáo Lý :
* Chủ đề của bài Giáo Lý.
* Nội dung của bài Giáo Lý.
* Tâm tình của học viên đối với nội dung của bài Giáo Lý.
+ Chủ đề của bài Giáo Lý : Điều này rất dễ xác định vì thông thường nằm ở tựa bài. Tuy nhiên cũng nên nhìn nó trong toàn bộ chương trình chứ đừng tách độc lập nó ra khỏi chương trình chung.
+ Nội dung của bài Giáo Lý : Đã xác định được chủ đề của bài rồi nhưng còn phải xác định cả nội dung của nó nữa. (Thí dụ : Chủ đề của bài Giáo Lý là : Bí Tích Thánh thể, nhưng khi trình bày sẽ có nhiều lối nhìn và góc cạnh khác nhau : Lương thực cho linh hồn, phương thế hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em...)
+ Cuối cùng chúng ta lưu ý đến tâm tình của học viên sẽ có đối với nội dung đó (Thí dụ : các em sẽ có tâm tình biết ơn Chúa, cảm tạ Chúa và yêu mến Chúa vì đã dùng Thịt và Máu để làm của nuôi linh hồn ta ...).
- Khi nắm vững ba yếu tố trên, Giáo Lý Viên cứ theo hướng đó sẽ rất dễ dàng để soạn ra một dàn bài Giáo Lý.
- Có thể soạn ra giấy và viết thành văn, nhất là những Giáo Lý Viên mới (dù rằng không cần thiết phải ‘đọc’ đúng những lời mình đã viết). Sẽ có những lợi điểm :
* Không ứng khẩu thiếu mạch lạc hay thiếu nội dung.
* Khi viết ra giấy, một lần nữa bài soạn được sàng lọc kỹ lưỡng, nhờ đó bài Giáo Lý sẽ gọn gàng, súc tích.
* Không bị ngắt quãng nữa chừng (vì không liên kết được các ý với nhau), dễ thích ứng với học viên và có những minh hoạ dí dỏm ...
b/. Chuẩn bị giáo cụ :
- Giáo cụ là những dụng cụ hỗ trợ hay minh hoạ cho một bài Giáo Lý như : bản đồ, tranh ảnh, phấn màu ... thậm chí cả cessette, vidéo hay những vật dụng khác có liên quan trực tiếp đến nội dung Giáo Lý.
- Giáo cụ có thể do Giáo Lý Viên tự tìm kiếm, sáng tạo làm lấy hoặc có thể do các em học viên.
- Nếu biết khai thác tối đa tác dụng của Giáo Lý rất nhiều vì đã sử dụng đến hai phương pháp đồng thời : thính và thị. Ngoài ra, về khía cạnh tâm lý các em học viên khi nhìn thấy các giáo cụ luôn thay đổi sẽ có một cảm giác bài Giáo Lý luôn mới mẻ và hấp dẫn (Tâm lý này cũng sẽ có, khi ta luôn làm vệ sinh phòng lớp, bàn ghế ngăn nắp gọn gàng và nhất là trang trí lớp học).
c/. Cầu nguyện :
Điều không thể thiếu nữa là vài phút để dâng cho Chúa giờ Giáo Lý mà chúng ta sắp dạy ngay khi chúng ta đang trên đường đi đến lớp. Đây cũng là bước quan trọng không thể bỏ qua trong việc chuẩn bị cho một giờ Giáo Lý.
II. SAU MỘT BÀI GIÁO LÝ
a/. Sau khi đã tiễn các học viên của mình ra khỏi lớp :
Một việc làm không hề dư thừa nữa là tạ ơn Chúa về giờ Giáo Lý đã qua ...
b/. Nhận xét - đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm :
Điều này thật hệ trọng không những chỉ đối với các Giáo Lý Viên mới mà thôi ...
Trường hợp giờ Giáo Lý vừa rồi chỉ một mình ta phụ trách thì hơi khó một chút, nhưng nếu có hai ba Giáo Lý Viên thì hiệu quả sẽ rất cao vì những nhận xét sẽ phong phú hơn, sự lượng giá sẽ chính xác hơn và những kinh nghiệm được rút ra sẽ quí báu hơn ... (Do đó rất cần thiết để các Giáo Lý Viên ngồi lại với nhau để đúc kết sau giờ Giáo Lý).
- Nhận xét :
+ Về Giáo Lý Viên : Nội dung có phù hợp với chủ đề, cách trình bày hay chưa, ngôn từ tác phong, những phần phụ (sinh hoạt chép bài... ) có liên kết hay minh họa cho chủ đề ? ...
+ Về phía học viên : Kỷ luật, chú ý tham gia một cách linh động, hiểu bài, tâm tình các em ..., các học viên đặc biệt ...
+ Về hoàn cảnh : Bầu khí tĩnh lặng hay sôi động, có mang một chút màu sắc tôn giáo, môi trường bên ngoài có phù hợp, địa điểm có thích hợp ? ...
- Rút kinh nghiệm : Đối với những nhận xét tích cực, những điều hay điểm tốt ... ta nên duy trì và phát huy như thế nào ?. Ngược lại, với những tiêu cực, ta nên tránh để không xảy ra hay bài trừ bằng cách nào ? ...
- Lượng giá : Căn cứ vào bầu khí tôn giáo trong lớp học và thái độ đáp ứng của các em, cả đời sống thiêng liêng lẫn đời sống nhân bản.
c/. Đôi điều tâm niệm :
- Việc biến đổi, hoán cải tâm hồn mọt con người là công việc của Chúa Thánh Thần, còn Giáo Lý Viên chỉ là một phát ngôn viên, là công cụ.
- Vì là dụng cụ nên Giáo Lý Viên phải luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, đựơc mài dũa sắc bén và hữu dụng để khi cần, bất kỳ khi nào và ở đâu cũng điều có thể đáp: ‘Này con đây, xin hãy sai con!’ (Is 6.8)
- Khi công việc có vẻ tiến triển rõ rệt, nên nhớ thành quả đó là của Chúa, đừng tự phụ kiêu căng. - ‘Tôi trồng, Apollo tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho cây mọc lên’ (1 Cor 3.6).
- Còn khi công việc trì trệ, có vẻ không đạt kết quả như ý thì cũng đừng nản lòng một khi đã làm hết sức mình. Hãy nhớ lời Cha Rey Mermet : ‘Lạy Chúa, được cộng tác với Chúa, con thật hãnh diện, con sẽ cố gắng hết sức mình... thành công thì Chúa hưởng, thất bại thì Chúa chịu, phần con chỉ xin được hưởng ơn cứu độ’.
Chương bốn
GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Đây là một mảng lớn trong việc dạy Giáo Lý thường hay bị các Giáo Lý Viên ở các họ đạo bỏ ngỏ vì nhiều lý do : Ngăn trở thời gian, địa điểm, tuổi tác hay vì thiếu kinh nghiệm và nhiều ngăn trở khách quan khác...
I. NHỮNG KHÓ KHĂN
1- Tình trạng đa tạp
- Về hoàn cảnh : Mỗi dự tòng đều khác nhau về trình độ văn hoá, vị trí xã hội, quan điểm - kiến thức về tôn giáo, thời gian dự lớp và môi trường sống nói chung.
- Về lý do tòng giáo : Mỗi dự tòng được nghe tiếng Chúa gọi và tìm đến với Giáo Hội bằng một con đường riêng với những khó khăn và thuận lợi riêng.
2- Biệt vị tính
- Với tình trạng đa tạp như trên khó lòng cho Giáo Lý Viên có thể dạy chung từng nhóm dự tòng với một khuôn mẫu nhất định được.
- Ngoài ra, dạy Giáo Lý cho dự tòng không phải là chỉ đơn thuần dạy ‘lẽ đạo’ như nhiều người lầm tưởng mà phải là một công cuộc giáo dục thiêng liêng toàn diện.
3- Trở ngại về ngôn ngữ
- Về phía người dự tòng : Với họ những từ ngữ hay kiểu nói rất thông dụng của người tín hữu (như : cứu rỗi, ân sủng, Nước Thiên Chúa . . .) nhất nhất đều lạ lẫm và không gợi lên được một âm hưởng gì. Ngược lại, vì còn đang do dự, xúc động, dò dẫm... nên họ cũng rất khó khăn khi diễn tả một cách rõ ràng những cảm nghĩ của họ.
-Về phía Giáo Lý Viên : cũng thật là khó khăn khi phải tìm từ ngữ dễ hiểu và tương đương khác để nói về một khái niệm tôn giáo hoặc phải giải thích cặn kẽ những từ ngữ tưởng chừng hết sức quen thuộc.
II. CÔNG VIỆC CỦA GIÁO LÝ VIÊN
Cuộc tiếp xúc lần đầu rất quan trọng vì :
- Qua Giáo Lý Viên, người dự tòng nầy chính thức gặp gỡ Giáo Hội lần đầu tiên (cho dù trước đó họ đã biết ít nhiều).
- Tâm tư của người dự tòng lúc đó rất phức tạp đa nghi nhưng hiếu kỳ, e ngại nhưng hy vọng ... Tất cả trộn lẫn với nhau và ấn tượng của buổi tiếp xúc ban đầu sẽ còn mãi nơi họ.
- Do vậy, trong cuộc gặp gỡ lần đầu này, Giáo Lý Viên không nên xã giao một các gượng ép hay giả tạo nhưng nên tự nhiên và cởi mở để người dự tòng có thể cảm thấy thoải mái nhận ra ngay rằng : Giáo Lý Viên này là người đáng tin cậy.
- Giáo Lý Viên cũng nên tỏ ra chín chắn, không nên coi thường những lo lắng, băn khoăn của người đến với mình.
2- Thanh luyện lý do tòng giáo
a/. Tìm hiểu lý do tòng giáo :
- Có nhiều lý do.
+ Khao khát chân lý (trí thức).
+ Làm lại cuộc đời (luân lý).
+ Vẽ đẹp của tôn giáo (nghệ thuật).
+ Đi tìm lý tưởng .
+ Gương bác ái và phục vụ của các Kytô Hữu.
+ Xin ơn và được như ý.
+ Kết hôn.
- Không phải mỗi dự tòng có ý định tòng giáo chỉ vì một lý do duy nhất, có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có một lý do chủ chốt làm khởi điểm hoặc kéo theo.
- Tìm hiểu lý do tòng giáo là việc cần thiết và ít lợi cho cả hai :
+ Phía Giáo Lý Viên hiểu rõ hơn dự tòng để dễ hướng dẫn.
+ Phía dự tòng có dịp suy nghĩ lại để biết, ý thức và xác tín rõ hơn sự lựa chọn của mình và con đường mình muốn theo.
- Nên lưu ý : Việc tìm hiểu này nên tế nhị và kín đáo và có thể sẽ mất nhiều thời gian.
b/. Thanh luyện lý do tòng giáo :
Rất có thể ban đầu dự tòng có ý định tòng giáo vì một lý do rất phụ thuộc hoặc chưa hoàn toàn trong sáng.
- Một mặt Giáo Lý Viên phải gây ý thức, thanh luyện và gợi lên những lý do chính yếu, khẩn thiết và đơn thành hơn.
- Mặt khác cũng chớ nên coi thường những lý do đó, vì Thiên Chúa có thể dùng những việc nhỏ để làm khởi điểm dẫn tới việc to lớn hơn.
3- Huấn luyện toàn diện
Nơi người dự tòng, Giáo Hội muốn thực hiện một cuộc đổi đời toàn diện để gia nhập Nước Thiên Chúa.
Công đồng Vatican II nêu rõ : Thời kỳ Giáo Lý dự tòng phải đáp ứng ba mục tiêu :
+ Dạy chân lý đức tin (tín lý).
+ Trình bày giới luật (luân lý).
+ Huấn luyện đời sống, tập sống đời Kytô hữu (sem AG - Sắc lệnh Truyền giáo số 14).
Chúng ta có thể chia ra thành hai giai đoạn : Chuẩn bị tâm hồn và dạy Giáo Lý (Pré-Catéchèse et Catéchèse).
a/. Chuẩn bị tâm hồn :
Trong giai đoạn đầu, Giáo Lý Viên chưa thể đề cập trực tiếp đến mầu nhiệm Kytô giáo được, nhưng phải đặt nền tảng trước bằng cách sử dụng những điểm tựa tự nhiên.
- Trao đổi với dự tòng về những kinh nghiệm sống, những vấn đề tổng quát liên quan đến con người (như : hạnh phúc và đau khổ, thành công và thất bại, sự sống và cái chết ...). Đào sâu và phân tích kỹ sẽ đụng phải tôn giáo và bắt gặp được Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đó là cách gián tiếp tìm hiểu tôn giáo.
- Người dự tòng thế nào cũng có nhiều thắc mắc riêng tư, nhất là về tôn giáo ... Đây chính là lúc giải quyết dứt điểm và thỏa đáng những ưu tư đó ...
Như vậy, giai đoạn này có tính cơ hội : dùng những ưu tư và kinh nghiệm sống của chính dự tòng làm khởi điểm cho những suy tư và trao đổi.
b/. Dạy Giáo Lý :
Khi các vấn nạn đã được giải quyết (con đường đã mở) cần chuyển sang giai đoạn dạy Giáo Lý.
- Trình bày chân lý đức tin một cách có hệ thống và mạch lạc, tức là các chân lý phải được sắp đặt sao cho ăn khớp với nhau và theo thứ tự trước sau.
- Những gì đã được diễn giải trong giai đoạn chuẩn bị cũng được sát nhập vào hệ thống nầy.
- Một lưu ý : Khi trình bày mỗi chân lý vẫn phải dựa vào kinh nghiệm cụ thể của dự tòng mà giảng giải.
c/. Cộng đoàn dự tòng :
Bên cạnh giai đoạn dạy Giáo Lý, cũng nên tập cho các dự tòng làm quen với phụng vụ, rèn luyện tinh thần mỗi tông đồ, tập sống đời Kytô hữu, cầu nguyện ... để mỗi dự tòng hòa mình vào đời sống Giáo Hội và được nâng đỡ hữu hiệu bằng cách tổ chức công đoàn dự tòng.
- Cộng đoàn này gồm : Các dự tòng đang học đạo, linh mục hướng dẫn, Giáo Lý Viên, những người đỡ đầu, những tín hữu nhiệt thành và cởi mở ... và sẽ tốt hơn nữa nếu có cả các tân tòng.
- Cộng đoàn này có một số sinh hoạt chung :
+ Cầu nguyện hay suy niệm, suy tôn lời Chúa.
+ Học hỏi chung về một vấn đề.
+ Bàn cách làm việc tông đồ hữu ích.
+ Trao đổi những kinh nghiệm, thắc mắc hay cảm nghĩ với linh mục, Giáo Lý Viên hay người đỡ đầu.
+ Gặp gỡ thân mật (tại một gia đình).
@ Có hai kinh nghiệm riêng :
* Các dự tòng dễ hiểu nhau, dễ trao đổi với nhau vì cùng một hoàn cảnh, nhưng đồng thời cũng rất khác nhau về tính tình, kinh nghiệm, giáo dục ... nên các cuộc trao đổi giữa cộng đoàn này rất lý thú, phong phú, bổ ích và tạo nên một tình bạn chân thành.
* Phải hết sức cẩn thận, nếu không có thể gây ra hiểu lầm (nhất là khi các dự tòng đã trở thành tân tòng) : Một họ đạo có hai ‘Giáo Hội’: Giáo Hội đạo gốc và Giáo Hội đạo mới !.
Cũng cần lưu ý : Không phải khi các dự tòng đã được gia nhập Giáo Hội bằng các Bí Tích khai tâm là Giáo Lý Viên đã ‘hết nhiệm vụ’, ‘hết trách nhiệm’.
III. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO LÝ DỰ TÒNG
Để soạn Giáo Trình cho dự tòng, người ta thường sử dụng một trong bốn lược đồ :
+ Lược đồ Lịch sử.
+ Lược đồ Phúc âm.
+ Lược đồ Phụng vụ.
+ Lược đồ Kinh Tin Kính.
Bốn lược đồ này chỉ khác nhau về bố cục và cách trình bày, nhưng nội dung chỉ là một.
1- Lược đồ lịch sử
a/. Sơ lược :
Các chân lý đức tin được trình bày theo thứ tự thời gian :
- Thiên Chúa tạo dựng con người và muôn vật để được hạnh phúc.
- Con người không đi theo đường lối của Thiên Chúa (Tội).
- Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng hứa cứu độ con người.
- Thiên Chúa chuẩn bị ơn cứu độ (sơ lược về lịch sử Israel).
- Thiên Chúa sai con mình xuống thế thực hiện ơn cứu độ con người (cuộc đời, giáo huấn, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu để cứu độ).
- Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu (nhiệm vụ và hoạt động của Giáo Hội, phụng vụ và Bí Tích).
- Đời sống Kytô hữu (Tin-cậy-mến, Bát phúc, Cầu nguyện).
- Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang đưa ta vào Thiên quốc.
b/. Ưu và khuyết điểm :
- Lược đồ này thích hợp cho người trí thức, thích những ý tưởng minh bạch, mạch lạc, suy luận căn cứ trên những sự kiện cụ thể; Ngược lai, người không quen quay lại với quá khứ hoặc không quen suy luận sẽ cảm thấy nhàm chán và xa lạ.
- Phần chuẩn bị ơn cứu độ (Cựu Ước) dài và phức tạp, để lấn át phần chính yếu là phần thực hiện ơn cứu độ (Tân Ước).
- Những biến cố lịch sử dồn dập và chồng chất dễ che khuất đi ý nghĩa của chúng.
c/. Cách dùng :
- Trong phần Cựu Ước nên tóm gọn, bỏ qua các sự kiện phụ thuộc và chi tiết, chỉ giữ lại vài biến cố chính yếu; Còn phần Tân Ước phải dài hơn và đầy đủ hơn.
- Khi nói về các biến cố trong Cựu Ước, nên trình bày rõ những biến cố đó được thực hiện trong Tân Ước như thế nào.
- Ngay từ đầu phải cho thấy Chúa Giêsu là Đấng thực hiện ơn cứu độ.
2- Lược đồ Phúc âm
a/. Sơ lược :
Bắt đầu từ chính Chúa Giêsu, con người và cuộc đời của Ngài, rồi trở ngược lại Cựu Ước để trình bày những gì xảy ra và báo trước về Ngài; Sau đó chuyển qua Giáo Hội ngày nay tiếp tục như thế nào.
b/. Ưu và khuyết điểm :
- Lược đồ này không mạch lạc và bao quát nhưng hấp dẫn và cụ thể. Các sách Tin Mừng là khởi điểm thuận tiện, đặt người dự tòng trước một nhân vật sống động.
- Lược đồ này rất thích hợp cho người chất phác, đơn sơ.
c/. Cách dùng :
- Chọn một sách Tin Mừng làm đầu bài rồi bổ túc bằng các sách Tin Mừng khác (không cần phải đi từng trang hay từng chương sách, chỉ cần lấy những đoạn chính, tóm tắt và giảng dạy những đoạn khó hiểu).
- Nên gom thành từng mục những trình bày về Chúa Giêsu (Ngài là ai? Ngài sống như thế nào ? Giáo huấn của Ngài về Thiên Chúa và về con người ? Thái độ của Ngài đi với Chúa Cha, với mọi người và với từng hạng người ? Ngài thực hiện công cuộc cứu độ bằng lời giảng, cái chết Phục sinh, ban Thánh Thần ? ...)
- Có thể bổ túc thêm bằng sách Công Vụ Tông Đồ và các Thư.
- Lược đồ này đòi phải soạn bài kỹ lưỡng hơn.
3- Lược đồ Phụng vụ
a/. Sơ lược :
Trình bày nội dung Giáo Lý theo chu trình các lễ trong năm Phụng vụ.
b/. Ưu và khuyết điểm :
- Lược đồ này rất cụ thể và cho thấy mối tương quan mật thiết giữa công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu và sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng cũng có bất lợi là không thể áp dụng cho các dự tòng tham dự lớp Giáo Lý vào đầu năm Phụng vụ hoặc không có giờ tham dự phụng vụ cũng như tham dự phụng vụ không đều đặn.
- Ngoài ra, một bất lợi nữa là có nhiều mầu nhiệm được phụng vụ cử hành dồn dập trong khoảng thời gian ngắn, do đó chương trình Giáo Lý không theo kịp và mất cân đối.
c/. Cách dùng :
- Đối với thánh lễ, ban đầu chỉ nên chú trọng đến các bài đọc, các lời nguyện, rồi dần dần mới đi vào ý nghĩa thánh lễ.
- Đối với các nghi lễ, nên quan tâm đến ý nghĩa của mầu nhiệm và phụng vụ mừng kính thay vì chi tiết lễ nghi.
- Tạm thời có thể phân phối chương trình Giáo Lý theo năm phụng vụ như sau :
+ Mùa vọng + Giáng sinh : Cựu Ước.
+ Lễ Hiển linh đến Phục sinh : Tân Ước.
+ Sau hiện xuống : Giáo Hội và đời Kytô hữu.
4- Lược đồ Kinh Tin Kính
Dầu theo lược đồ nào, dự tòng cũng phải thuộc Kinh Tin Kính, bởi kinh này bao gồm đầy đủ những chân lý tôn giáo nền tảng của một đức tin tông truyền ... Những điều chính yếu của các lược đồ trên cũng được gồm tóm trong kinh này.
- Với lược đồ này, sử dụng phương pháp diễn dịch thì phù hợp hơn là quy nạp.
- Trong lược đồ này sẽ vấp phải một vài từ ngữ chuyên môn (như ‘Nhập thể’ ‘Đồng bản tính’ ...) Giáo Lý Viên phải tìm những kiểu nói dễ hiểu và cụ thể để giải thích.
Chương năm
TÂM LÝ CHUNG CỦA CÁC HỌC VIÊN GIÁO LÝ
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý con người, nên chúng ta chỉ lướt qua để đi thẳng đến điều cần xem kỹ là : Tâm lý chung nơi các học viên của chúng ta theo từng lứa tuổi (và đặc biệt quan tâm đến lứa tuổi thanh thiếu niên hơn).
I. TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ TỪ 3-6 TUỔI
# Đây là lứa tuổi đơn sơ, hồn nhiên và dễ thương nhất, nhưng dạy Giáo Lý cho lứa tuổi này không phải là chuyện dễ.
1- Đây là lứa tuổi mà thế giới bị thu gọn tối đa trong một cặp “mẹ-con, con-mẹ” (do đó ta thấy phần đông là các cô dạy Mẫu giáo). Lứa tuổi này là lứa tuổi phó thác, tin tưởng hoàn toàn nơi cha mẹ. ( Vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã nói : “Nước Trời dành cho những ai giống như chúng ” Mc 10.14 - giống ở việc phó thác và tin tưởng tuyệt đối.)
2- Lứa tuổi này sống trong sự thần tiên huyền diệu, trong một thế giới mà ý muốn là toàn năng. Thích làm trò vui và pha trò duyên dáng, rất đỗi trẻ con.
3- Chính vì sự thần tiên đó mà lứa tuổi này muốn là trung tâm điểm của vũ trụ muốn người khác chú ý, vì vậy rất độc tài ; hay ganh tỵ và hờn mát nếu không thỏa mãn tự ái.
4- Lứa tuổi này hay bắt chước, nhất là bắt chước cha mẹ, (bắt chước cả lời ăn tiếng nói lẫn hành vi cử chỉ) đồng thời rất hay đặt câu hỏi ‘tại sao’.
# Tóm lại : Lứa tuổi này như một tờ giấy trắng, rất dễ ghi lên đó những gì ta muốn; tuy nhiên, phải hết sức thận trọng : những lời nói hay cử chỉ của ta (dù là vô tình) đều được trẻ con copy nhanh chóng.
II. TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ TỪ 7-8 TUỔI
# Đã bắt đầu vào ‘tuổi khôn’ mà theo qui định của Giáo hội, trẻ đã có thể nhận lãnh các Bí tích Giải tội, Thánh Thể, Thêm sức.
1- Lứa tuổi này trẻ đã nhanh chóng phân biệt được chuyện thần tiên và chuyện thật cũng như phân biệt được điều thiện và điều ác.
2- Lứa tuổi đã biết suy nghĩ, chín chắn hơn một chút dù còn rất ham vui. Thích tìm hiểu và đã biết so sánh (so sánh các ý kiến với nhau, so sánh những gì đã học được với thực tế, so sánh lời nói với việc làm của người khác).
3- Lứa tuổi đã bắt đầu đi học nên tính cộng đoàn, đồng đội, bạn bè cũng bắt đầu phát triển. Dễ sống hòa đồng nhưng cũng muốn biết người khác nghĩ gì về mình.
4- Lứa tuổi thích thưởng thức các vẻ đẹp thiên nhiên, biết hướng nội. Các cảm quan về tôn giáo đã trỗi dậy nên nhạy cảm với những vấn đề thiêng liêng, mầu nhiệm.
# Tóm lại : Ở lứa tuổi này, tâm tình tôn giáo đã chớm nở. Những gì thuộc về đức tin mà trẻ học được hầu như sẽ được nó mang theo rất lâu sau này. Đây là một giai đoạn rất quan trọng đối với các Giáo Lý Viên (nhất là các Giáo Lý Viên phụ trách các lớp xưng tội rước lễ vỡ lòng) trong việc dạy cho các em tôn thờ và tin yêu Chúa Giêsu Thánh Thể.
III. TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ TỪ 10-12 TUỔI
# Đây là lứa tuổi mà chúng ta dễ nhận ra tâm tính, tánh tình của chúng nhất.
1- Lứa tuổi này thường hướng ngoại, thích hoạt động và khám phá, do đó dễ bị ngoại cảnh lôi cuốn.
2- Lứa tuổi chú trọng đến chuyện công bằng nên thiên về luật lệ (khi chơi thì chú trọng luật chơi, khi học thì để ý đến tính toán, văn phạm...). Vì vậy trẻ đã bỏ hẳn những chuyện thần tiên nhưng đồng thời lại ưa thích chuyện phiêu lưu mạo hiểm.
3- Lứa tuổi này trí nhớ đã phát triển mạnh bên cạnh những vấn đề thuộc phái tính. Tuy nhiên, chúng thường đánh giá nhau theo những tiêu chuẩn phụ thuộc bên ngoài (con trai : học giỏi, khỏe mạnh, chơi hay, ... con gái : tóc dài, mắt to ...).
4- Lứa tuổi đã có bạn thân, thường tụ tập thành nhóm chơi với nhau và rất dễ bị ảnh hưởng nhau. Thích làm nổi (dù là tiêu cực) để khẳng định cái tôi của mình trong nhóm hoặc trong một cộng đoàn.
# Tóm lại : Phải hết sức tránh để trẻ bị bất mãn, vì lứa tuổi này là thế. Các cử điệu không còn phù hợp nữa (đôi khi còn là điều cấm kỵ đối với một số em có tính mắc cỡ). Cần hướng dẫn trẻ đi vào chiều sâu hơn là hình thức bên ngoài để các em có thể tự mình khám phá ra Thiên Chúa.
IV. TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 13-15 TUỔI
# Đây là một lứa tuổi chuyển tiếp giữa trẻ con và người lớn. Ưa kể chuyện mới xảy ra hôm qua bằng câu mở đầu : ‘Hồi đó mình còn nhỏ...’ Lứa tuổi này nổi tiếng là khó dạy và vô kỷ luật, đòi hỏi các nhà giáo dục phải hết mực lạc quan, khéo léo và thạo tâm lý.
1- Lứa tuổi này vì không còn là trẻ nhỏ, nhưng lại chưa phải là người lớn ; Mặt khác, sự phát triển mau chóng về mặt sinh lý làm cho trẻ mất quân bình về tâm lý. Bên cạnh đó, ý thức về tự do cũng chớm nở nhưng lại còn vụng về nên thường tự vệ, bào chữa ..., cố vươn lên để chứng tỏ mình khác với trẻ nhỏ nên sinh ra phê phán, chống đối (có khi chống đối công khai và rất có hệ thống).
2- Là lứa tuổi dậy thì nên phái tính phát triển mạnh, tâm lý hay thay đổi (có khi là một đứa trẻ dễ bảo dễ thương, nhưng có khi làm ra vẻ người lớn bằng cách bướng bỉnh, bất tuân, chống đối ... ) Trẻ nam thì hướng ngoại : thích lao động sáng tạo, rèn thể lực và ý chí, tập tính can đảm ..., các em nữ thì lại hướng nội : Mộng mơ, tình cảm và hay làm dáng.
3- Lứa tuổi này thường sống với những ước mơ màu hồng và dám hy sinh quảng đại để biến những ước mơ đó thành hiện thực; nhưng lại cũng rất dễ nản lòng khi thấy thực tế khác xa với những gì mình mơ ước; ham thích nghệ thuật. Hay thần thánh hoá nên có những thần tượng, những siêu sao điện ảnh, ca nhạc, thể thao ..., vì vậy có thể ‘chết được’ nếu thần tượng của mình bị sụp đổ.
4- Lứa tuổi này cũng có những hoài bão, những lý tưởng cao cả; vì vậy cũng rất phù hợp để ươm trồng và phát triển ơn gọi (dù quan niệm về Thiên Chúa ở lứa tuổi này nhìn chung còn hời hợt và nông cạn).
# Tóm lại : Lứa tuổi này đòi giảng viên phải có một sự mạch lạc trong Giáo lý, đồng thời chính bản thân Giáo Lý Viên phải tỏ ra mình cũng đang theo đuổi một lý tưởng cao cả mới có thể khuyến khích được các em. Bên cạnh đó bớt nhấn mạnh đến kỷ luật, vâng lời ... Sẽ rất nguy hiểm cho lứa tuổi này nếu ở xứ đạo nào mà sau khi đã Thêm sức xong, không có chưng trình Giáo Lý tiếp theo hoặc không có hội đoàn, đoàn thể nào cho các em tham dự, tham gia.
V. TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 16-18 TUỔI
# Đây là lứa tuổi đã biết suy nghĩ, chín chắn, ham hiểu biết, tự chủ và lựa chọn. Do đó đức tin ở trẻ đã có ý thức hơn; Tuy nhiên cũng vì vậy mà trẻ gặp khó khăn thường xuyên hơn - có khi rất trầm trọng - trong lãnh vực đức tin.
1- Lứa tuổi này thường hay đặt vấn đề và chỉ thỏa mãn khi nào được giải đáp thật hợp lý và khúc chiết. Những gì mà trẻ ở tuổi này khám phá ra thì quan trọng hơn những gì mà chúng được học, bởi vậy ưa phê phán người khác, nhưng sự phê phán đó lại bị tình cảm chi phối.
2- Lứa tuổi này hay tuyệt đối hoá vấn đề và hay tự tín. Hướng về tương lai hơn là chú ý đến thực tế thường nhật. Các thần tượng đã bớt đi tầm ảnh hưởng, nhưng nơi trẻ lại có óc thủ lãnh; đồng thời ở lứa tuổi này nam nữ đã bắt đầu biết tán tỉnh nhau để tiến tới tình yêu phái tính.
3- Ở lứa tuổi này trẻ vẫn rất kính phục những tấm gương sống tỏa sáng nhân đức, nhưng người có học vấn, tri thức lại rất quan trọng đối với trẻ. Chúng chỉ chịu phục những ai hơn hẳn chúng về tri thức. Hành động mà không nghĩ xa, không cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra cũng là đặc trưng của tâm lý trẻ ở tuổi này.
4- Lứa tuổi này đã có ý thức được cái ‘tôi’ của mình cùng với trách nhiệm và quyền lợi. Hiểu chính xác hơn về tội lỗi và luật lệ, nhất là luật luân lý tự nhiên. Nơi trẻ đã phát sinh những ước vọng hội nhập xã hội. Thích tìm hiểu quá khứ, lịch sử; nhưng lại chỉ nhìn những biến cố xảy ra bằng đôi mắt chủ quan ...
# Tóm lại : Ở lứa tuổi này, thích hợp nhất vẫn là những Giáo Lý Viên có được một tính cách tổng hợp: vừa là cha mẹ, vừa là thầy, vừa là một thủ lãnh nhưng đồng thời là một người bạn tri kỷ của trẻ. Các em rất cần được cảm thông, hiểu rõ tâm tình và nguyện vọng của chúng cũng như rất cần sự khích lệ, chia sẻ và nhất là gương sáng của ta. Tuy nhiên người làm gương phải kín đáo, tế nhị, xóa bỏ mình đi, nhất là tránh gây ảnh hưởng cá nhân hoặc biến mình thành thần tượng cho trẻ (x. Jn 3. 30 : ‘Đức Kytô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại’).
VI. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI THANH NIÊN (18-25 TUỔI)
# Lứa tuổi này dài hay ngắn rất khó xác định vì còn phải tùy thuộc vào hai yếu tố quyết định : sự trưởng thành nội giới của mỗi người (chủ quan) và điều kiện xã hội (khách quan).
1- Ở tuổi này, bằng con đường văn hoá, thanh niên đã ý thức được rằng sự hiểu biết của họ chỉ là tương đối; bằng sự va chạm thực tế, họ cũng chân nhận : những mộng mơ và thực tế thì khác xa nhau ... Do đó thanh niên đã dần dần sáng suốt hơn, thực tế và cũng giàu nghị lực hơn.
2- Thanh niên cũng là tuổi thường muốn tự khẳng định mình, thích tự lập, không ngại khó khăn, dễ thích ứng, nhưng có nhiều tham vọng. Họ muốn được người lớn tôn trọng và công nhận những giá trị mà họ mến chuộng. Họ thích chinh phục nhưng không hề muốn muốn bị chinh phục. Nơi họ, tình bạn không chỉ đơn thuần chỉ là qua lại nhà nhau chơi.
3- Cũng ở tuổi này, đa số thanh niên thường có những âu lo trên con đường hôn nhân và chức nghiệp. Cũng chính các hoạt động này đã choán hết chỗ đứng của các hoạt động tôn giáo, nên vì thế mà thanh niên là lứa tuổi hay bị võ đoán rằng rất ‘khô đạo’.
4- Nếu thành công trên đường hôn nhân và chức nghiệp thì người thanh niên kể như đã trưởng thành và đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong xã hội. Ngược lại, khi bị thất bại, thanh niên sẽ chán nản buông xuôi, rơi vào tuyệt vọng. Đây chính là một nguyên nhân chủ chất trong việc ‘khô đạo’ nơi đa số thanh niên.
# Tóm lại : Đây là lứa tuổi thật khó để đưa ra một đường lối thích hợp cho việc dạy Giáo Lý, nhất là trong việc tổ chức, tìm gặp . . . Vì lẽ đó mà nhiều nơi, cho tới nay, Giáo Lý thanh niên vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Một cách chung, thanh niên chỉ quan tâm đến những gì có liên quan thực sự và trực tiếp đến chính cá nhân họ và những vấn đề thuộc về họ mà thôi.
VII. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI TRUNG NIÊN (25-45 TUỔI)
# Đây là tuổi của lao động sáng tạo, biến đổi xã hội và thế giới. Tâm lý của tuổi này đã khá bình ổn vì hôn nhân, nghề nghiệp và nhiều mặt khác đã được định vị trong cuộc sống.
1- Ở tuổi này, những hoạt động không còn tự phát nữa nhưng theo phán đoán, suy nghĩ và lựa chọn chín chắn. Dù theo đuổi một lý tưởng, tuổi trung niên vẫn căn cứ vào thực tế mà phấn đấu và hành động. Tuổi này đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm về hạnh phúc và đau khổ, thất bại và thành công . . .
2- Lứa tuổi này, đôi khi vì hăng say hoạt động mà bỏ qua hoặc xao lãng yếu tố tinh thần; hay là chỉ căn cứ trên yếu tố hoạt động mà đánh giá con người. Cũng có khi vì hoạt động trên nhiều lĩnh vực nên khó dung hoà được những đòi hỏi đặc thù của từng lãnh vực (khoa học với đức tin; hoạt động với cầu nguyện ...).
3- Đa phần những người ở tuổi trung niên sống theo thói quen và hình thức. Một lối sống, một tục lệ, một trật tự, một nếp suy nghĩ . . được duy trì và bảo vệ; Do đó họ dễ trở nên thành kiến, cầu an. Chính vì lý do này mà thanh niên thường bất mãn với các bậc phụ huynh (tuổi này) vì không đồng tình hay khuyến khích họ trong những sáng kiến đổi mới táo bạo của họ.
4- Tuổi trung niên được kể là đã hoà nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội, do vậy, nghề nghiệp chiếm phần lớn đời sống của họ. Nhờ làm việc cùng với người khác và hiểu người khác nên bản ngã của họ cũng được thăng hoa; Đồng thời với họ, ngoài mục đích sinh nhai, nghề nghiệp còn là phương thế để viên thành những ước mơ và lý tưởng , để xây dựng một trật tự xã hội.
# Tóm lại : Ở tuổi này, ít ai còn ham thích được thụ huấn Giáo Lý nữa (có lẽ một phần nào là do tâm lý đã ổn định và cho rằng ‘bấy nhiêu là đủ rồi’?) Do vậy phải giúp họ thấy rằng : Đức tin luôn luôn phải được giáo dục và bồi dưỡng dù là ở tuổi nào, vì đức tin vượt lên trên mọi khó khăn đồng thời phát huy tối đa các tiềm năng của lứa tuổi. Mặt khác, cũng giúp cho tuổi trung niên thấy rằng : Đức tin không làm giảm các khả năng tự nhiên hay hạn chế các hoạt động trần thế của con người, mà ngược lại còn thăng tiến chúng.
VIII. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI THÀNH NIÊN (45-65 TUỔI)
# Đây là lứa tuổi có tâm lý đặc biệt : như mặt trăng tròn rồi lại khuyết, con nước lớn lại ròng ... tuổi thành niên cũng vậy : sau khi leo lên đỉnh dốc ở tuổi trung niên, tuổi thành niên tự cảm thấy rằng mình đã bắt đầu đi xuống theo dốc bên kia ...
1- Tuổi này, sức tranh đấu giảm dần, cảm thấy mình mệt mỏi, đuối sức và nhận rõ giới hạn của mình. Không còn chạy theo những cái mới lạ nữa nhưng vô tư, bình thành hơn trước vấn đề. Tuổi này không còn ảo tưởng nữa vì đã thấy rõ sự khác biệt giữa lý tưởng và thực tế nên khó lòng thay đổi tập quán và tánh tình.
2- Tuổi thành niên suy tư nhiều hơn nhưng cảm thấy không thể hiểu nổi thế hệ sau. Dù chỗ đứng trong xã hội đã được định đoạt nhưng họ vẫn biết rằng sắp đến lúc phải nhường chỗ lại cho bọn trẻ. Họ ít có sáng kiến hơn nhưng lại rất tin tưởng vào kinh nghiệm bản thân .
3- Tuổi nầy thể lực và tinh thần đã suy giảm nên những cám dỗ về sự hoài nghi dẫn tới khủng hoảng (trước đây chỉ ngấm ngầm) đã bộc phát và công khai đe dọa, do đó dễ bị mất quân bình và thường hay đặt lại vấn đề (người ta nói ‘già đổi tính’ là vì vậy). Có người dừng lại an phận : tiêu khiển, nghỉ ngơi, ẩn dật, nhưng số khác lại không chấp nhận tuổi già, vẫn tiếp tục lăn xả.
4- Tuổi thành niên nghĩ đến lợi ích chung hơn là lợi ích cá nhân, chú trọng đến việc phục vụ nên có thể trở thành những nhà lãnh đạo uy tín, thực tế và kinh nghiệm. Tuổi nầy cũng là tuổi thuận tiện để trở thành người vợ người chồng tốt. Mặc dù tình yêu không còn sôi nổi, rạo rực như trước đây nhưng lại rất chất lượng, sâu lắng và thâm trầm.
# Tóm lại : Đức tin của tuổi thành niên là một đức tin tổng hợp, mang tính cộng đồng và thấm nhuần hy vọng. Làm sao để cho họ thấy rằng họ đang cùng những người khác soi rọi lại toàn bộ cuộc sống của họ, từ các biến cố đến các kinh nghiệm, các giá trị ... dưới tình thương của Thiên chúa - một tình thương lớn hơn những yếu đuối, lỗi phạm của họ trước đây ...
Với một Giáo Lý như thế chắc chắn tuổi thành niên sẽ dễ dàng đón nhận vì giải thoát họ khỏi lo âu, kiêu căng hay ảo tưởng, nhưng mang lại bình an cho tâm hồn họ.
IX. TÂM LÝ CHUNG CỦA LỨA TUỔI LÃO NIÊN (TRÊN 65 TUỔI)
# Ở Á Đông thì khá hơn một chút so với Tây phương về những thành kiến khắt khe dành cho người già, nhưng không phải vì vậy mà không có những lời than phiền. Người ta cho rằng tuổi già thường là vô dụng, gây bận rộn, phiền toái và mất thời giờ cho người khác ; người già chẳng giúp gì cho việc tông đồ nên người già chẳng cần phải được dạy dỗ gì thêm. (Đây cũng chính là suy nghĩ chủ quan của một số lão niên yếm thế).
1- Tới tuổi nầy, người già đã có tạm đủ dữ kiện để nhận định cuộc đời của mình. Không những các vị ấy biết rằng mình sắp chết, sẽ phải chết, mà sự chết còn là một cái gì gần gũi và cụ thể. Hiện tại thì cận kề cái chết, tương lai thì kể như không có gì nên người già thường quay về quá khứ, sống bằng những kỷ niệm và hay kể chuyện ‘hồi xưa’, ‘còn trẻ’ ...
2- Tâm lý là do tuổi tác gây ra nên vì đó người già có thể có những thái độ không đúng mức : chua cay, oán hờn, khép kín, chỉ trích, công kích giới trẻ về mọi cái mới ; bám víu tuyệt vọng vào cuộc đời với những thú vui của nó, có những hành vi ngang ngạnh để tỏ ra mình còn trẻ, mình chưa già ...
3- Nhưng tuổi già cũng là tuổi tỏa sáng các nhân đức. Nghệ thuật làm nội ngoại của họ chỉ đơn giản là ít đòi hỏi nhưng sẵn sàng phục vụ cho con cháu, và còn phục vụ trên khả năng cho phép ngay cả khi chưa được yêu cầu. Các cụ cũng rất khoan dung (vì đã ý thức được những lỗi lầm, yếu đuối và khó khăn mà các ngày đã trải qua) đồng thời lại cũng biết kiên tâm, chấp nhận những thiếu thốn, bệnh tật, cô đơn, bị bỏ rơi và cả sự chết nữa ...
4- Đây cũng là tuổi mà con người sống chiều sâu của đời sống nội tâm thiêng liêng nhiều nhất. Siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và nhận lãnh các Bí tích là đặc điểm nổi bật cuả các bô lão Kytô giáo. Chính các ngài cũng là mực thước về đời sống luân lý cho thế hệ trẻ đồng thời cũng là bật thầy về kinh nghiệm (sống, suy tư, nghề nghiệp...)
# Tóm lại : Tuổi già không phải là lúc học thêm những điều mới hay theo đuổi những khoá Giáo Lý dài hạn với những lý luận phức tạp hay lời giảng dài dòng. Nên nuôi dưỡng tâm hồn các cụ bằng một đức tin hướng về tương lai (không phải là sự chết nhưng là cõi vĩnh hằng), phó thác trong tay Chúa và tỏa sáng các nhân đức. Cố gắng đến thăm họ, cho họ biết những tin tức trong Giáo hội, tìm cho họ việc tông đồ thích hợp (nhất là cầu nguyện cho việc truyền giáo), chuyện vãn thường xuyên với họ về các chủ đề : mầu nhiệm sự chết, hữu dụng của tuổi già, chấp nhận đau khổ để cứu chuộc mình và người khác (anh em, con cháu mình) đồng thời đừng quá lo lắng về những lỗi lầm trong quá khứ xa xưa ...
Làm được như vậy là giúp cho tuổi lão niên rất nhiều, và ngược lại, người già cũng có thể làm ích cho Giáo Hội rất nhiều.
Chương phụ lục
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
I. CÁC PHƯƠNG PHÁP CŨ VÀ MỚI
1- Phương pháp cũ
a/. Cắt nghĩa thủ bản :
Đây là phương pháp ‘cổ truyền’ còn thịnh hành khá nhiều nơi tại Việt Nam. Giáo Lý Viên đọc từng câu hỏi + thưa trong thủ bản, sau đó cắt nghĩa những từ khó bằng kiểu nói đơn sơ hơn, lấy ví dụ trong Thánh Kinh hoặc trong đời sống để soi sáng ; có khi khuyên nhủ vài lời cảm tình. Cứ thế hết câu này đến câu khác cho đến cuối bài. Sau cùng là các học viên phải học thuộc lòng cả bài... Cũng có Giáo Lý Viên cho bài về nhà học thuộc lòng trước, rồi mới cắt nghĩa sau cho rộng hơn, sâu hơn.
b/. Ưu và khuyết điểm của phương pháp này :
Phương pháp này rất tiện dụng cho phía Giáo Lý Viên, không kịp soạn bài vẫn có thể một giờ Giáo Lý ‘chu đáo’ ! Nhưng hầu như ngày nay không một nhà sư phạm giáo dục nào thật sự có thể chấp nhận, đến nỗi có tác giả đã gọi là ‘một chú giải tốt nhưng là một bài dạy Giáo Lý khả ố’ (une bonne exégèse, mais une détestable catéchèse). Ngày nay vẫn còn hiện diện các bô lão thuộc làu làu sách bổn, nhưng rất có thể đó chỉ là một mớ kiến thức khô khan, trừu tượng, không ảnh hưởng gì đến đời sống thực tế và nhất là không thích ứng, không phù hợp với tâm lý, nhu cầu và khả năng của người thụ huấn trong môi trường hôm nay.
Phương pháp cổ điển này chỉ giúp người ta ‘biết’ Thiên Chúa bằng lý trí mà thôi (đành rằng ‘vô tri bất mộ’, Satan biết Thiên Chúa hơn ai hết nhưng nào hắn có mộ mến Thiên Chúa đâu, ngược lại là khác). Nếu tìm Chúa chỉ bằng lý trí mà thôi thì khó có thể gặp được Ngài, nhưng phải bằng cả con người toàn diện với mọi khả năng, kể cả trực giác để ‘cảm nghiệm’ Thiên Chúa. Qua đó các học viên mới có thể tự mình đến với Thiên Chúa, cầu nguyện tự phát và có tâm tình thật sự với Thiên Chúa.
2- Các phương pháp mới
a/. Phương pháp chủ động :
Phương pháp này đang được phổ biến và áp dụng rộng rãi ở các nước Tây phương. Điểm chính yếu của phương pháp này là : Người dạy chỉ gợi ý, còn các học viên thì tích cực hoạt động để tự tìm ra chân lý.
b/. Phương pháp tâm lý :
Phương pháp này dựa trên những khám phá mới về tâm lý con người ở mỗi lứa tuổi, mỗi giới ... Người ta căn cứ trên những đặc điểm tâm lý riêng biệt đó để đưa ra nhưng phương pháp thích hợp nhằm thúc đẩy những khả năng tiềm ẩn nơi các học viên. Do đó, các học viên được trưởng thành toàn diện, một cách tự nhiên, chủ động nhưng có hệ thống.
c/. Ưu và khuyết điểm của phương pháp mới :
Hẳn nhiên bằng phương pháp mới người ta sẽ khắc phục được những nhược điểm của phương pháp cũ. Đó là một ưu điểm bên cạnh những ưu điểm mà ta đã biết. Dù vậy, phương pháp không phải là không có những khuyết điểm :
- Về phía Giáo Lý Viên : Phải duy nhất một Giáo Lý Viên đó theo sát từng diễn biến tâm lý của các học viên và từng học viên trong từng giai đoạn. Sẽ rất khó khăn khi có sự thay đổi Giáo Lý Viên phụ trách lớp hay nhóm đó. Hơn nữa, đòi hỏi phải có một thời gian lâu dài, mà ở môi trường chúng ta khó có một Giáo Lý Viên nào có thể đáp ứng yêu cầu này. Ngoài ra, lại một yêu cầu khó đáp ứng khác nữa đặt ra cho các Giáo Lý Viên khi áp dụng phương pháp mới là : Phải trải qua các khoá huấn luyện, trường lớp, đồng thời phải có những phương tiện vật chất dồi dào ...
- Về phía các học viên : Phương pháp mới rất sống động, vui tươi; chính vì quá vui có thể làm lu mờ nội dung đức tin và bầu khí tôn giáo của một lớp Giáo Lý; sẽ rất khó khăn trong những phút thinh lặng, suy tư, cầu nguyện; hoặc sẽ rất khó phải ‘ở một mình’ khi đã quen sống sôi động ... Như vậy, đời sống thiêng liêng sẽ rất thiệt thòi và hạn chế. Mặt khác, một khuyết điểm thuộc loại tối quan trọng nữa là với phương pháp hoạt động, khi Giáo Lý Viên đưa ra một chủ đề, các học viên sẽ chỉ theo hướng chủ quan của mình mà học hỏi, họ sẽ chỉ theo đuổi những gì mà họ thích và bỏ qua những cái khác ; Đã thế, cái ‘chân lý’ mà họ tìm ra chưa chắc đã phù hợp với đức tin. Vậy để sửa đổi cái mà chính người khác tự tìm ra và cho là đúng đó, có lẽ sẽ rất ít Giáo Lý Viên nào làm được.
II. PHƯƠNG PHÁP CỦA CHÚNG TA.
Chúng ta sẽ chọn phương pháp nào đây ? ‘Đả cựu nghinh tân’ chăng ? Hay là ‘Thủ cựu bài tân’ ? Hay cũng có thể là vì cả hai phương pháp cổ điển lẫn tân kỳ đều bộc lộ những khuyết điểm nên ta phế bỏ cả và chỉ dạy Giáo Lý bằng phương pháp ‘tùy hứng’ ? ...
Vì nội dung của Giáo Lý cổ điển phụ thuộc quá sâu đậm vào hai yếu tố do hoàn cảnh gây ra : trước hết là cái sở thích của thời Trung cổ : kê khai những công thức chia theo toán học và những con số, nên chỉ thiên về luân lý. Thứ hai là hậu ý chống lại các bè rối (thế kỷ 16) cho nên Giáo Lý được trình bày với tính cách hộ giáo và đặc biệt chú ý những khía cạnh bị phủ nhận mà bỏ qua những khía cạnh khác phong phú hơn.
Cách nhìn truyền thống đó không sai nhưng chỉ tập trung hạn hẹp vào khía cạnh sinh hoạt nhân bản mà quên đề cao sáng kiến của Thiên Chúa. Vả lại, hiện nay Giáo Hội không còn phải đương đầu với một bè rối nhất định nhưng phải đối đầu với một làn sóng ‘lãnh đạm với thực tại siêu nhiên’ đang lan tràn ồ ạt ... Cho nên cần phải làm cho người ta có một quan niệm sáng sủa, phấn khởi và bao quát về thế giới siêu nhiên, về Nước Trời mà Chúa đã thiết lập ở trần gian.
Có nên chăng áp dụng câu nói của Chúa Giêsu : ‘ ... Giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ’ (Mt 13. 52) ? Một cách chung, có lẽ chúng ta nên tận dụng những cái hay đồng thời hạn chế và bài trừ những cái chưa hay của mọi phương pháp. Hơn nữa, nếu phương pháp phụ thuộc vào chủ đích, nội dung và đối tượng thì khi các yếu tố đó thay đổi (nhất là đối tượng con người) thì phương pháp truyền giảng Tin Mừng cho con người cũng thay đổi. Chắc chắn sẽ gây khó chịu cho những ai quen sống nề nếp, nhưng buộc phải như thế nếu muốn khai thác kho tàng bất tận của Tin Mừng để đáp ứng cho nhưng đòi hỏi của một thế giới đầy biến động ... Vì thế, muốn bổ khuyết cho đức tin và đời sống đạo trong hoàn cảnh văn minh vật chất hôm nay, phải không ngừng canh tân việc dạy Giáo Lý. Vì lẽ đó, với chúng ta, phương pháp dạy Giáo Lý hầu như không bao giờ cố định hay thành hình.
Fat. Vĩnh Long
JNT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sư phạm Giáo Lý : Lm. Nguyễn Văn Tuyên.
Sư phạm Giáo Lý I : Lm. Trịnh Thiên Thu.
Hồng Ân Huấn Giáo II : Giáo Phận Xuân Lộc.
Hướng dẫn Giáo Lý Viên : Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm .
Tông Huấn ‘Dạy Giáo Lý trong thời đại chúng ta’ (Tradendae Catechesi) / Đức Giáo Hoàng Joan Phaolo II.
Công Đồng Vatican II : Sắc lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes)