Nội dung
I. Dẫn nhập
II. Bản văn và cấu trúc
1. Bản văn Ga 6,22-40
2. Cấu trúc Ga 6,22-40
1. Bản văn Ga 6,22-40
2. Cấu trúc Ga 6,22-40
III. “Bánh hằng ngày” và “bánh hằng sống”
1. Bánh hằng ngày
2. Sự hiểu lầm của thính giả
3. Bánh hằng sống
a) Bánh xuống từ trời
b) Bánh đích thực
c) Bánh ban sự sống cho thế gian
d) Bánh sự sống là chính Đức Giê-su
e) Bánh làm thoả mãn mọi đói khát của con người
1. Bánh hằng ngày
2. Sự hiểu lầm của thính giả
3. Bánh hằng sống
a) Bánh xuống từ trời
b) Bánh đích thực
c) Bánh ban sự sống cho thế gian
d) Bánh sự sống là chính Đức Giê-su
e) Bánh làm thoả mãn mọi đói khát của con người
I. Dẫn nhập
Trong sách chú giải Tin Mừng Gio-an, Raymond E. BROWN đã trình bày nhiều vấn đề phức tạp, liên quan đến việc biên soạn chương 6 của Tin Mừng Gio-an. Tác giả cũng nêu lên những khó khăn trên bình diện lịch sử khi nối kết hai dấu lạ (6,1-21) với diễn từ bánh sự sống (6:25-59), (xem BROWN, The Gospel, vol. I, p. 258-259, chi tiết của tài liệu ở mục “Sách tham khảo” cuối bài viết). Tuy nhiên, trên bình diện văn chương và thần học, có thể xem toàn bộ Ga 6 là một chương có kết cấu chặt chẽ. Rudolf SCHNACKENBURG viết: “Ga 6 là một đơn vị độc lập trong đó cho thấy rõ ràng là được biên soạn cẩn thận. Chức năng của Ga 6trong Tin Mừng là miêu tả một giai đoạn hoạt động của Đức Giê-su ở Ga-li-lê, thực ra, đó là đỉnh cao và là bước ngoặt. Về chủ đề, Ga 6 trình bày cho chúng ta mặc khải của Đức Giêsu về chính Người như là bánh sự sống” (SCHNACKENBURG, The Gospel, vol. II, p. 10).
Trong viễn cảnh văn chương và thần học này, chương 6 có sự thống nhất về văn chương, Ga 6 trình bày hoạt động của Đức Giê-su ở Ga-li-lê, trong khi Ga 5 và Ga 7 thuật lại hoạt động của Người ở Giê-ru-sa-lem. Trong Ga 6, Đức Giê-su mặc khải về căn tính, nguồn gốc và sứ vụ của Người qua đề tài “bánh”. Ga 6 là chương dài nhất trong Tin Mừng Gio-an (71 câu), và có cấu trúc: Dấu lạ - diễn từ - hệ quả.
I. Hai dấu lạ (6,1-21)
a) 6,1-15: Dấu lạ Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều
b) 6,16-21: Dấu lạ Đức Giê-su đi trên biển hồ Ga-li-lê
II. Diễn từ bánh sự sống (6,22-59)
1) 6,22-24: Chuyển tiếp. Đám đông tìm gặp Đức Giê-su
2) 6,35-59: Nội dung diễn từ bánh sự sống
a) 6,25-40: Bánh từ trời xuống, bánh sự sống
b) 6,41-51: Tranh luận về nguồn gốc Đức Giê-su
c) 6,52-59: Ăn thịt và uống máu Con Người
III. Hệ quả
1) 6,60-66: Nhiều môn đệ bỏ đi, không theo Đức Giê-su nữa
2) 6,67-71: Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su
(Xem cấu trúc chi tiết và phân tích Ga 6 trong Giuse LÊ MINH THÔNG, “Ga 6,22-71: ‘Thánh Thể, lý trí và đức tin’”, in Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, Nxb. Phương Đông, 2010, p. 120-121).
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích đề tài: Từ “bánh hằng ngày” đến “bánh hằng sống” trong đoạn văn Ga 6,22-40. Trước tiên, sẽ trình bày bản văn và cấu trúc Ga 6,22-40, kế đến là phần tìm hiểu đề tài “bánh” với ba mục: (1) Bánh hằng ngày, (2) Sự hiểu lầm của người nghe, và (3) Bánh hằng sống.
II. Bản văn và cấu trúc
1. Bản văn Ga 6,22-40 (Bảnvăn Gio-an, Hy Lạp – Việt, 2011)
[6,22-24: Chuyển tiếp. Đám đông gặp lại Đức Giê-su]
6,22 Hôm sau, đám đông đứng bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó không có thuyền nào khác ngoại trừ một chiếc, và rằng Đức Giê-su không cùng với các môn đệ của Người xuống thuyền, nhưng chỉ các môn đệ của Người ra đi. 23 Những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a cũng đến gần nơi họ đã ăn bánh tạ ơn của Chúa. 24 Vậy khi đám đông thấy rằng Đức Giê-su không ở đó, các môn đệ của Người cũng không, họ xuống các thuyền ấy và đến Ca-phác-na-um tìm Đức Giê-su.
[6,25-29: Công việc của Thiên Chúa và tin]
25 Khi thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, Thầy đến đây bao giờ?” 26 Đức Giê-su trả lời họ và nói: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Các ông tìm Tôi không phải vì đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã ăn bánh và đã được no nê. 27 Các ông hãy làm việc đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực trường tồn cho sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ông. Bởi vì trên Người, Cha là Thiên Chúa đã đóng ấn.” 28 Vậy họ nói với Người: “Chúng tôi làm gì để làm công việc của Thiên Chúa?” 29 Đức Giê-su trả lời và nói với họ: “Đây là việc của Thiên Chúa là các ông tin vào Đấng mà Người đã sai đến.”
[6,30-36: Bánh bởi trời, bánh sự sống]
30 Họ nói với Người: “Vậy chính Ông, Ông làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy và chúng tôi tin Ông? Ông sẽ làm việc gì? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Bánh bởi trời, Người đã cho họ ăn.’” 32 Đức Giê-su nói với họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Không phải Mô-sê đã cho các ông bánh bởi trời, nhưng chính Cha của Tôi cho các ông bánh bởi trời, bánh đích thực, 33 vì bánh của Thiên Chúa là bánh xuống từ trời, và ban sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói với Người: “Thưa Ngài, hãy cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi.” 35 Đức Giê-su nói với họ: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ. 36 Nhưng Tôi đã nói với các ông: ‘Các ông đã thấy [Tôi] mà các ông không tin.’
[6,37-40: Đức Giê-su xuống từ trời để ban sự sống đời đời]
37 Tất cả những người Cha ban cho Tôi sẽ đến với Tôi, và người đến với Tôi, Tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì Tôi xuống từ trời không để thực hiện ý muốn của Tôi nhưng thực hiện ý muốn của Đấng đã sai Tôi. 39 Đây là ý muốn của Đấng đã sai Tôi: Tất cả những ai Người đã ban cho Tôi, Tôi sẽ không để hư mất một ai, nhưng Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết. 40 Thật vậy, đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời, và chính Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết.”
2. Cấu trúc Ga 6,22-40
Đoạn văn Ga 6,22-40 là phần đầu của diễn từ bánh sự sống trong Ga 6. Ga 6,22-40 gồm hai phần: (1)Trình thuật về việc đám đông đến Ca-pha-na-um tìm gặp Đức Giê-su (6,22-24). (2) Phần đối thoại giữa đám đông và Đức Giê-su, phần này có thể cấu trúc thành ba đoạn văn:
Chuyển tiếp: 6,22-24: Đám đông tìm gặp Đức Giê-su
Đoạn 1: 6,25-29, Công việc của Thiên Chúa và tin
Đám đông hỏi (6,25), Đức Giê-su trả lời (6,26-27)
Đám đông hỏi (6,28), Đức Giê-su trả lời (6,29)
Đoạn 2: 6,30-36, Bánh từ trời, bánh sự sống
Đám đông hỏi (6,30-31), Đức Giê-su trả lời (6,32-33)
Đám đông xin (6,34), Đức Giê-su trả lời (6,35-36)
Đoạn 3: 6,37-40, Đức Giê-su mặc khải về Cha và về Người.
Mở đầu đoạn thứ nhất (6,25-29) cho thấy sự hiểu lầm của đám đông về đề tài “bánh”. Đức Giê-su nói với họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Các ông tìm Tôi không phải vì đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã ăn bánh và đã được no nê” (6,26). Rồi Người mời gọi họ: “Các ông hãy làm việc đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực trường tồn cho sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ông” (6:27). Phần kết đoạn thứ nhất (6,28-29) nói về “việc của Thiên Chúa”. Đức Giê-su nói với đám đông: “Đây là việc của Thiên Chúa là các ông tin vào Đấng mà Người đã sai đến” (6,29). Thực hiện “công việc của Thiên Chúa” tức là tin vào Đức Giê-su.
Đoạn thứ hai (6,30-36) bàn về đề tài khác: Đám đông yêu cầu Đức Giê-su thực hiện một dấu lạ (6,30), và họ nhắc lại dấu lạ man-na trong quá khứ (6,31). Họ nói với Đức Giê-su: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Bánh bởi trời, Người đã cho họ ăn’” (6,31). Dựa trên đề tài “man-na trong sa mạc” là “bánh bởi trời” trong quá khứ, Đức Giê-su mặc khải về “bách đích thực” là “bánh bởi trời” mà Cha của Người sẽ ban cho họ trong hiện tại (6,32). Sau đó, đám đông thỉnh cầu Đức Giê-su: “Thưa Ngài, hãy cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi” (6,34). Phần trả lời của Đức Giê-su trong hai câu tiếp theo (6,35-36) gồm ba ý chính: (1) Mặc khải về căn tính của Đức Giê-su: “Chính Tôi là bánh sự sống” (6,35a). (2) Quà tặng của Người cho trần gian: “Người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ” (6,35b). (3) Sự hiểu lầm của đám đông về Đức Giê-su và về lời của Người, bởi vì họ xin Đức Giê-su “bánh” nhưng họ lại không tin vào Đức Giê-su (6,36). Nghĩa là họ đã không hiểu ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều (6,1-15) và cũng không hiểu giáo huấn của Đức Giê-su.
Trong đoạn thứ ba (6,37-40), Đức Giê-su tiếp tục mặc khải những điều quan trọng: (1) Tương quan giữa Đức Giê-su và Cha của Người, (2) Nguồn gốc của Đức Giê-su và sứ vụ của Người trong thế gian, và (3) Quà tặng sự sống đời đời dành cho “Tất cả những ai thấy Con [Đức Giê-su] và tin vào Người” (6,40). Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết” ở 6,39b được nhấn mạnh, vì lời này lặp lại lần thứ hai ở 6,40b. Trong Tin Mừng Gio-an đề tài “sống lại ngày sau hết” gợi đến thần học truyền thống về cánh chung, gọi là “cánh chung trong tương lại” (future eschatology). “Cánh chung tương lai” này song song với thần học Tin Mừng Gio-an về “cánh chung hiện tại” (Johannine realized eschatology). “Cánh chung hiện tại” là một trong những nét độc đáo của thần học Gio-an, bởi vì Đức Giê-su long trọng khẳng định với những người Do Thái ở Ga 6,47: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Người tin có sự sống đời đời.”
III. “Bánh hằng ngày” và “bánh hằng sống”
Trong bài viết này, chúng tôi chú trọng phân tích đề tài “bánh” trong đoạn văn thứ hai (6,30-36). Độc giả có thể nêu lên câu hỏi: Người thuật chuyện đã dùng “dấu lạ bánh hoá nhiều” (6,1-15) và “giáo huấn của Đức Giê-su” (6,25-40) như thế nào, để giúp độc giả hiểu về “bánh hằng sống”? Bằng cách sử dụng kỹ thuật hành văn “hiểu lầm” (the technique of misunderstanding), người thuật chuyện dẫn người đọc vào nội dung mặc khải của Đức Giê-su về “bánh hằng sống”. Những phân tích sau đây về “bánh hằng ngày” và “sự hiểu lầm của người nghe” sẽ giúp hiểu “bánh hằng sống”.
1. Bánh hằng ngày
Có hai chi tiết trong đoạn văn Ga 6,1-40 nói về bánh hằng ngày. Chi tiết thứ nhất là dấu lạ bánh hoá nhiều. Từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, Đức Giê-su đã muôi ăn một đám đông rất lớn: chỉ tính đàn ông, con số đã khoảng năm ngàn người (6,10), và mọi người hiện diện đã được ăn no nê (6,12). Thấy dấu lạ lớn lao Đức Giê-su thực hiện, đám đông đã thốt lên: “Ông này thực sự là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (6,14). Từ đó, họ có ý định “bắt lấy Đức Giê-su để tôn làm vua”. Biết thế, Đức Giê-su lánh lên núi một mình (6,15). Đức Giê-su từ chối ý định tôn Người làm vua vì đám đông đã không hiểu ý nghĩa dấu lạ bánh hoá nhiều. Nói đúng hơn, họ đã hiểu lầm về dấu lạ và hiểu lầm về chính Đức Giê-su cũng như vai trò của Người trong thế gian.
Chi tiết thứ hai liên hệ đến “bánh hằng ngày” là “man-na”. Đám đông yêu cầu Đức Giê-su làm một dấu lạ, họ nói: “Chính Ông, Ông làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy và chúng tôi tin Ông? Ông sẽ làm việc gì?” (6,30), rồi họ nhắc đến biến cố man-na trong sa mạc: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Bánh bởi trời, Người đã cho họ ăn’” (6,31). Trong sách Xuất Hành, dân Ít-ra-en than trách ông Mô-sê, bởi vì trong sa mạc họ không có đủ thức ăn và nước uống. Vì thế ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16,4, CGKPV). Và rồi “Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra” (Xh 16,21, CGKPV). Dân Ít-ra-en gọi thức ăn rơi xuống từ trời này là “man-na”.
Man-na trong sa mạc là dấu chỉ lớn lao cho dân Ít-ra-en, tuy nhiên, man-na vẫn là loại “bánh hằng ngày”. Trong sa mạc, dân Ít-ra-en phải lượm man-na mỗi ngày để ăn. Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su nhắc lại với những người Do Thái rằng: “Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc và đã chết” (Ga 6,49), sau đó Người mặc khải về bánh đích thực: “Đây là bánh, bánh xuống từ trời, để ai ăn bánh này thì không phải chết” (Ga 6,50). Bánh bởi trời này là chính Đức Giê-su (6,35).
Khi đám đông yêu cầu Đức Giê-su thực hiện dấu lạ (6,30) và họ nhắc lại bánh bởi trời là man-na trong sa mạc, họ muốn so sánh Đức Giê-su với Mô-sê. Nhưng Đức Giê-su không so sánh Người với Mô-sê. Đức Giê-su gọi Thiên Chúa là Cha của Người và Người đồng hoá mình với “bánh đích thực”, như thế, Đức Giê-su cao trọng hơn Mô-sê. Trong đoạn văn 6,30-33, cuộc đối thoại được trình bày dưới hình thức “Hỏi – Đáp” cho thấy đám đông đã hiểu lầm về căn tính của Đức Giê-su.
Đối với độc giả, đề tài “hiểu lầm” trải dài suốt Ga 6. Bằng cách nào người thuật chuyện giúp độc giả hiểu ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều? Đâu là sự nối kết giữa “bánh hằng ngày” và “bánh hằng sống” trong Ga 6? Có thể trả lời những câu hỏi này qua phân tích đề tài “sự hiểu lầm của thính giả” trong câu chuyện.
2. Sự hiểu lầm của thính giả
Trong Tin Mừng Gio-an, “hiểu lầm” là kỹ thuật hành văn của người thuật chuyện. Khi viết câu chuyện, người thuật chuyện giao tiếp với độc giả qua những tình tiết trong câu chuyện. Người thuật chuyện sử dụng kỹ thuật hành văn “hiểu lầm”, “hiểu sai” để giúp độc giả “hiểu đúng” mặc khải của Đức Giê-su. Có thể so sánh sự hiểu lầm của đám đông trong Ga 6,25-34 với sự hiểu lầm của người phụ nữ Sa-ma-ri ở Ga 4,9-15. Hai đoạn văn này song song với nhau về kỹ thuật hành văn “Hỏi (H) – Đáp (Đ)”. Nhờ sự hiểu lầm của người nghe và những lời giải thích của Đức Giê-su mà nội dung mặc khải được trình bày.
Những chi tiết song song giữa Ga 6,25-34 và 4,9-15 trên đây cho thấy kỹ thuật hành văn hiểu lầm trong Tin Mừng Gio-an (xem BROWN, The Gospel, vol. I, p. 267). Còn nhiều trình thuật khác trong Tin Mừng Gio-an dựa trên sự hiểu lầm của người nghe. Chẳng hạn, cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô ở 3,1-12; tranh luận giữa Đức Giê-su với những người Do Thái và với những người Pha-ri-sêu ở Ga 7–8. Kỹ thuật hành văn “hiểu lầm” tạo cơ hội để Đức Giê-su mặc khải “sự thật” về Chúa Cha, cũng như về nguồn gốc, căn tính và sứ vụ của Người. Nhờ “hiểu lầm”, Đức Giê-su giải thích cho “người nghe” và “người đọc” biết Người thực sự là ai, và quà tặng của Người dành cho thế gian là gì. Riêng trong Ga 6, có thể ghi nhận nhiều chi tiết “hiểu lầm” của đám đông.
(1) Sau khi chứng kiến dấu lạ bánh hoá nhiều, đám đông muốn bắt lấy Đức Giê-su và tôn Người làm vua (6,15). Sự nhiệt tình này của đám đông chỉ dựa trên “thấy thể lý”, nghĩa là họ chỉ thấy khía cạnh kỳ diệu, phi phường bên ngoài của dấu lạ bánh hoá nhiều. Ý định tôn Đức Giê-su làm vua là quan niệm vương quyền theo hướng chính trị. Họ đã không biết ý nghĩa thực sự của dấu lạ mà Đức Giê-su muốn nhắm tới. Nói cách khác phản ứng của đám đông cho thấy họ đã hiểu lầm, hiểu sai.
(2) Sau khi tìm thấy Đức Giê-su ở Ca-pha-na-um, đám đông hỏi Người: “Thưa Ráp-bi, Thầy đến đây bao giờ?” (6,25). Đức Giê-su trả lời họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Các ông tìm Tôi không phải vì đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã ăn bánh và đã được no nê” (6,26). Đám đông tìm Đức Giê-su vì “bánh hằng ngày” chứ không phải vì “bánh hằng sống”. Họ muốn có bánh hằng ngày để ăn như đã ăn no nê trong dấu lạ bánh hoá nhiều. Họ đã hiểu không đúng về dấu lạ và hiểu lầm về sứ vụ của Đức Giê-su.
(3) Ở 6,34, đám đông thỉnh cầu Đức Giê-su: “Thưa Ngài, hãy cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi” (6,34). Họ xin điều này, vì trong câu trước (6,32b-33), Đức Giê-su đã nói với họ: “Cha của Tôi cho các ông bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh của Thiên Chúa là bánhxuống từ trời, và ban sự sống cho thế gian” (6,23-33). Họ đã hiểu Đức Giê-su nói về một thứ bánh đặc biệt Thiên Chúa ban cho họ, nên họ xin được có thứ bánh đó “luôn mãi” (pantote). Nghĩa là họ muốn có thứ bánh đó, theo cách như man-na trong sa mạc, để ăn hằng ngày. Thực ra, khi Đức Giê-su nói tới “bánh đích thực” (6,32), Người muốn nói tới “bánh hằng sống” và ai có thứ bánh đó thì không bao giờ đói và khát nữa. Bánh đích thực đó là chính Đức Giê-su vì Người khẳng định: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ” (6,35). Đám đông xin thứ bánh lặp đi lặp lại qua trạng từ Hy Lạp: “pantote” (luôn mãi), trong khi Đức Giê-su lại nói đến thứ bánh chỉ ban một lần là đủ, với trạng từ “pôpote” (mãi mãi), nghĩa là không bao giờ đói và khát nữa.
(4) Ở 6,30, đám đông hỏi Đức Giê-su: “Chính Ông, Ông làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy và chúng tôi tin Ông? Ông sẽ làm việc gì?” Ngày hôm trước, đám đông đã thấy Đức Giê-su làm dấu lạ bánh hoá nhiều (6,1-15), nhưng xem ra dấu lạ này không đủ cho họ. Thực ra, họ chỉ “thấy” dấu lạ bánh hoá nhiều như là một dấu chỉ về Đấng Mê-si-a trần thế. Thế nên, theo nghĩa thần học thì đám đông đã không thực sự “thấy” dấu lạ.
Qua nhiều chi tiết hiểu lầm của khán thính giả trong trình thuật, người thuật chuyện muốn trình bày với độc giả ý nghĩa đích thực của dấu lạ. Đức Giê-su mặc khải ý nghĩa này trong diễn từ “bánh sự sống”, “bánh hằng sống”, nghĩa là bánh đem lại sự sống đời đời.
3. Bánh hằng sống
Dựa trên sự hiểu lầm của những người nghe, Đức Giê-su cho biết thế nào là “bánh đích thực”. Có nhiều cách gọi thứ bánh này: “Bánh sự sống” (the Bread of life), “bánh đích thực” (the true bread), “bánh đem lại sự sống” (the living bread) hay “bánh hằng sống” (the everlasting bread). Có thể giải thích quà tặng này qua một số đặc điểm: (a) Bánh bởi trời, (b) Bánh đích thực, (c) Bánh ban sự sống cho thế gian, (d) Bánh sự sống là chính Đức Giê-su, và (e) Bánh làm thoả mãn mọi đói khát của con người.
a) Bánh bởi trời
Kiểu nói “bánh bởi trời” hay “bánh xuống từ trời” xuất hiện ở 6,31-33. Đám đông nói với Đức Giê-su: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Bánh bởi trời, Người đã cho họ ăn’” (6,31). Đức Giê-su trả lời họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Không phải Mô-sê đã cho các ông bánh bởi trời, nhưng chính Cha của Tôi cho các ông bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh của Thiên Chúa là bánh xuống từ trời, và ban sự sống cho thế gian” (6,32-33). Đám đông nói về man-na trong sa mạc, thứ bánh rơi xuống từ trời, mà cha ông họ đã ăn trong quá khứ. Nhưng Đức Giê-su lại nói về “bánh xuống từ trời” mà Cha của Người ban cho họ ngay bây giờ, trong hiện tại. Một đặc điểm khác của thứ “bánh đặc biệt” này là “bánh đích thực”.
b) Bánh đích thực
Cách dùng tính từ “thật”, “đích thực” (alêthinos) để định nghĩa bánh bởi trời, cho phép phân biệt thứ bánh này với mọi thứ bánh khác, ngay cả với bánh bởi trời mà cha ông những người Do-thái đã ăn trong sa-mạc. Craig S. KEENER ghi nhận: “Bánh mà Đức Giê-su loan báo còn thiết yếu hơn cả man-na đã ban vào thời Mô-sê, bởi vì đây là ‘bánh đích thực’ (6,32)” (KEENER, The Gospel,vol. I, p. 682). Đặc tính “thật” (true) hay “xác thực” (genuine) được nhấn mạnh trong câu Đức Giê-su nói với đám đông: “Chính Cha của Tôi cho các ông bánh bởi trời, bánh đích thực” (6,32).
Kiểu nói xác định phẩm chất “thật”, “đích thực” là một trong những đặc điểm của văn chương Tin Mừng Gio-an. Thực vậy, Đức Giê-su là “ánh sáng thật” (1,9), là “cây nho đích thực” (15,1). Xét đoán của Đức Giê-su là thật (8,16); lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là xác thực (19,35). Đặc biệt, Đức Giê-su nói về Cha của Người, Đấng đã sai Người, là “Đấng chân thật” (7,28), và “Cha làThiên Chúa duy nhất, chân thật” (17,3). Như thế, “bánh đích thực (true)” là bánh xác thực (authentic), “bánh xuống từ trời, và ban sự sống cho thế gian” (6,33).
c) Bánh ban sự sống cho thế gian
Đức Giê-su cho biết “bánh đích thực” là “bánh ban sự sống co thế gian” (6,33). Lời mặc khải này tương phản với man-na trong sa mạc (6,31). Francis J. MOLONEY viết về song song giữa man-na và bánh đích thực như sau: “Trong quá khứ, chính Thiên Chúa đã ban bánh chứ không phải Mô-sê (cf. v. 32). Bây giờ cũng chính Thiên Chúa ấy, Cha của Đức Giê-su, ban bánh đích thực bởi trời. Man-na thời Mô-sê cung cấp lương thực cho Ít-ra-en; bánh đích thực bởi trời ban sự sống cho tất cả thế gian” (MOLONEY, The Gospel, p. 212).
Ý tưởng bánh đích thực, ban sự sống cho “thế gian” (6,33) là kiểu diễn tả quen thuộc trong văn chương Gio-an, khi nói về công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Khi Gio-an Tẩy Giả thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, ông ấy nói về Đức Giê-su: “Đây là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội thế gian” (1,29). Ở 3,16 Đức Giê-su nói về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian như sau: “Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời” (3,16). Ở Ga 4, dân thành Sa-ma-ri nói với người phụ nữ Sa-ma-ri về Đức Giê-su: “Không còn phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì chính chúng tôi đã nghe và đã biết rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian” (4,42).
Quả thực, Thiên Chúa yêu thương thế gian, Người đã sai Đức Giê-su đến để cứu thế gian (3,16), để xoá bỏ tội thế gian (1,26), để ban sự sống cho thế gian (6,33). “Thế gian” là nơi chốn và là đối tượng để Đức Giê-su thi hành sứ vụ. Tuy nhiên, theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su không chỉ là người ban bánh đích thực, mà chính Người là bánh đích thực, bánh sự sống.
d) Bánh sự sống là chính Đức Giê-su
Khi đám đông xin Đức Giê-su: “Thưa Ngài, hãy cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi” (6,34), Người trả lời họ: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ” (6,35). Khi khẳng định “Chính Tôi là bánh sự sống”, Đức Giê-su đồng hoá Người với “bánh đích thực”, “bánh xuống từ trời” (6,33). Trong đoạn văn 6,37-40, Đức Giê-su nói với đám đông: “Tôi xuống từ trời không để thực hiện ý muốn của Tôi nhưngthực hiện ý muốn của Đấng đã sai Tôi” (6,38). So sánh lời này với 6,33: “Bánh của Thiên Chúa là bánh xuống từ trời, và ban sự sống cho thế gian”, độc giả nhận ra rằng “Bánh xuống trừ trời” (6,33) chính là “Đức Giê-su xuống từ trời” (6,38) để thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Kiểu nói “Tôi là” trong câu “Tôi là bánh sự sống” là ngôn ngữ đặc thù của thần học Tin Mừng Gio-an. Có hai cách dùng kiểu nói “Tôi là”: (1) Không có vị ngữ (predicate) đi kèm và (2) có vị ngữ.
(1) Một số nơi trong Tin Mừng Gio-an, xuất hiện kiểu nói “Tôi Là”, không có vị ngữ (predicate). Trong trường hợp này, cụm từ “Tôi Là” mặc khải thiên tính của Đức Giê-su. Chẳng hạn, Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở Ga 8,24: “Nếu các ông không tin rằng: Tôi Là, các ông sẽ chết trong tội của các ông.” Lời khẳng định “Tôi Là” trong câu này gợi đến biến cố Thiên Chúa mặc khải danh của Người cho Mô-sê trong sách Xuất Hành. Khi Mô-sê hỏi tên gọi của Thiên Chúa, Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Ta là” [I am who I am]. Rồi Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng Ta Là [I Am] sai tôi đến với anh em’” (Xh 3,14). “TA LÀ” là tên gọi của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa không mặc khải tên gọi của Người cho Mô-sê. Theo quan niệm của dân Ít-ra-en, biết tên gọi của người nào là biết được người ấy và có thể gây ảnh hưởng hay điều kiển người ấy. Bởi vì con người không thể biết Thiên Chúa theo nghĩa có thể gây ảnh hưởng hay điều kiển Người, nên Thiên Chúa không mặc khải tên của Người cho Mô-sê.
Tuy vậy, kiểu nói “Ta Là” để nói về tên của Thiên Chúa có ý nghĩa thần học quan trọng. Câu “Đấng Ta Là [I Am] sai tôi đến với anh em” (Xh 3,14), định nghĩa Thiên Chúa là “Đấng Ta Là”. Nghĩa là Thiên Chúa là Đấng đã, đang và sẽ “can thiệp” vào lịch sử và “hoạt động” trong lịch sử. Muốn biết Thiên Chúa là ai, hãy nhìn vào lịch sử. Đấng “Ta Là” là Đấng tạo dựng vũ trụ muôn loài và là Đấng đang hiện diện trong lịch sử nhân loại. Khi Đức Giê-su dùng kiểu nói “Ta Là” (không có vị ngữ) để nói về mình (Ga 8,24), Đức Giê-su đã đồng hoá Người với Thiên Chúa của Ít-ra-en, “Đấng Ta Là” (Xh 3,14).
(2) Khi Đức Giê-su dùng kiểu nói “Tôi là”, có kèm theo vị ngữ (predicate), thì không ám chỉ thiên tính của Người (who he is), nhưng nói về sứ vụ của Người trong thế gian (what he does). Nhiều lần trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su dùng kiểu nói “Tôi là” kèm theo vị ngữ, để nói về quà tặng của Người dành cho thế gian. Chẳng hạn, Đức Giê-su tuyên bố: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (Ga 8,12; xem 9,5). Đức Giê-su là (“Tôi là”, “Thầy là”) Cửa ràn chiên (10,7.9); là mục tử tốt (10,11.14); là sự sống và là sự sống lại (11,25); là con đường, là sự thật và là sự sống (14,6); là cây nho đích thực (15,1). Lời khẳng định “Tôi là bánh sự sống”, cho thấy Đức Giê-su có khả năng nuôi dưỡng mọi người bằng thứ bánh mang lại sự sống đích thực.
e) Bánh làm thoả mãi mọi đói khát của con người
“Bánh sự sống”, chính là Đức Giê-su, là bánh làm thoả mãn tất cả mọi đói khát của con người. Làm thế nào điều kỳ diệu này có thể trở thành hiện thực? Câu trả lời đơn giản và rõ ràng của Đức Giê-su: “Người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ” (6,35b). Câu này có cấu trúc song song: Vế thứ nhất “người đến với Tôi” được giải thích trong vế thứ hai: “người tin vào Tôi”. Hai cụm từ “không hề đói” và “không hề khát” (chẳng khát bao giờ) song song với nhau. Cấu trúc câu như trên cho thấy “đến với Đức Giê-su” tương đương với “tin vào Đức Giê-su”. Ga 7,37-38 cũng cấu trúc song song giữa “đến với” và “tin vào Đức Giê-su”, kết hợp với đề tài “nước”. Người thuật chuyện kể: “Vào ngày cuối cùng, ngày long trọng nhất của dịp lễ [lễ Lều], Đức Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói: Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống’” (7,37-38).
“Bánh sự sống”, chính là Đức Giê-su, là bánh làm thoả mãn tất cả mọi đói khát của con người. Làm thế nào điều kỳ diệu này có thể trở thành hiện thực? Câu trả lời đơn giản và rõ ràng của Đức Giê-su: “Người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ” (6,35b). Câu này có cấu trúc song song: Vế thứ nhất “người đến với Tôi” được giải thích trong vế thứ hai: “người tin vào Tôi”. Hai cụm từ “không hề đói” và “không hề khát” (chẳng khát bao giờ) song song với nhau. Cấu trúc câu như trên cho thấy “đến với Đức Giê-su” tương đương với “tin vào Đức Giê-su”. Ga 7,37-38 cũng cấu trúc song song giữa “đến với” và “tin vào Đức Giê-su”, kết hợp với đề tài “nước”. Người thuật chuyện kể: “Vào ngày cuối cùng, ngày long trọng nhất của dịp lễ [lễ Lều], Đức Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói: Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống’” (7,37-38).
Lời tuyên bố của Đức Giê-su ở 6,35 có gợi ý trong Cựu Ước. Những ý tưởng trong Tin Mừng Gio-an liên hệ với Cựu Ước giúp thính giả thời Đức Giê-su dễ dàng hiểu lời của Đức Giê-su hơn. Đề tài “đói và khát” đã được nói đến trong sách Huấn Ca và sách I-sai-a. Trong sách Huấn ca đức khôn ngoan nói: “Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24,21, CGKPV), nghĩa là đức khôn ngoan kích thích lòng khao khát nơi con người, vì không có gì đáng khát khao hơn đức khôn ngoan. Ở Ga 6,35, Đức Giê-su lại nói đến “không bao giờ đói và khát” nữa, nghĩa là lương thực Người ban tặng có khả năng làm thoả mãn mọi đói khát của con người. Hai kiểu diễn tả ngược nhau (Hc 24,21 và Ga 6,35) nhưng nói về cùng một ý tưởng. Ở Is 49,10 lời Đức Chúa hứa với những kẻ lưu đày trở về như sau: “Chúng sẽ không phải đói phải khát,không bị khí nóng và mặt trời hành hạ, vì Đấng thương xót chúng sẽ hướng dẫn và đưa chúng đến những suối nước tuôn trào” (Is 49,10, CGKPV). Đức Giê-su đã thực hiện các lời hứa của Đức Chúa trong Cựu Ước, chính Người là bánh sự sống (Ga 6,35a), chính Người có quyền năng làm thỏa mãn mọi nhu cầu sâu xa nhất của con người, làm thoả mãn mọi thứ đói khát (6,35b) của đời người.
IV. Kết luận
Như đã nêu trong phần dẫn nhập, trên bình diện lịch sử và quá trình biên soạn bản văn, có nhiều chi tiết phức tạp và khó giải thích trong Ga 6. Tuy nhiên, trên bình diện văn chương và thần học, có thể xem toàn bộ chương 6 Tin Mừng Gio-an có cấu trúc chặt sẽ và trình bày nhiều đề tài thần học quan trọng. Phần cấu trúc cho thấy rằng hai dấu lạ Đức Giê-su thực hiện (bánh hoá nhiều và đi trên mặt Biển Hồ) chuẩn bị cho phần diễn từ về “bánh sự sống” (6:25-59). Nói cách khác, diễn từ bánh sự sống giải thích ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều, và ngược lại, dấu lạ bánh hoá nhiều giúp độc giả hiểu giáo huấn của Đức Giê-su trong diễn từ.
Người thuật chuyện đã dùng “sự hiểu lầm”, “hiểu sai” như một kỹ thuật hành văn để giúp độc giả “hiểu đúng” ý nghĩa câu chuyện. Dựa trên sự hiểu lầm của đám đông, Đức Giê-su giải thích và mặc khải về ý nghĩa của “bánh sự sống”. Có thể tóm kết về “bánh hằng sống” qua năm đặc tính: (1) Bánh xuống từ trời, hay bánh bởi trời; (2) Bánh đích thực; (3) Bánh ban sự sống cho thế gian; (4) Bánh ấy chính là Đức Giê-su; (5) Bánh sự sống có khả năng làm thoả mãn mọi khát vọng của con người.
Bằng “trình thuật” và “đối thoại” trong đoạn văn Ga 6,22-40, người thuật chuyện mời gọi độc giả “thấy dấu lạ” (6,25), “thấy Đức Giê-su” (6,40), “đến với Người” và “tin vào Người” (6,35). Tuy nhiên, trong Ga 6, đám đông đã thấy dấu lạ bánh hoá nhiều (6,14), họ đã thấy Đức Giê-su (6,36), và đã đến với Người (6,24), nhưng họ vẫn không tin vào Người (6,36). Vậy, chúng ta phải làm gì để đạt tới điều Tin Mừng Gio-an mong muốn độc giả thực hiện: “Thực sự thấy Đức Giê-su”, “thực sự đến với Người” và “thực sự tin vào Người”? Đề tài này có thể được bàn đến trong một bài viết khác.
Sách tham khảo
[1966] Raymond E. BROWN, The Gospel According to John, I–XII,vol. I, (Anchor Bible 29), New York (NY), Doubleday, 1966, 538 p.
[1971] Rudolf SCHNACKENBURG, The Gospel According to St. John, vol. II: Commentary on Chapter 5–12, (Herder’s Theological Commentary on the New Testament), London, Burns & Oates, (1971), 1980, 556 p. (Orig. Das Johannesevangelium).
[1998] Francis J. MOLONEY, The Gospel of John, (Sacra Pagina Series 4), Collegeville (MN), The Liturgical Press, 1998, xxii-594 p.
[2003] Craig S. KEENER, The Gospel of John. A Commentary, vol. I, Peabody (MA), Hendrickson Publishers, 2003, 1636 p.
[2010] Giuse LÊ MINH THÔNG, “Ga 6,22-71: ‘Thánh Thể, lý trí và đức tin’”, in Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, Nxb. Phương Đông, 2010, p. 110-146.