A. L. NIKIFROV (*)
Trong những năm gần đây, một lần nữa người ta lại bàn luận sôi nổi về vấn đề: các bộ môn khoa học nhân văn, cụ thể là triết học, có cần cho những chuyên gia về các khoa học tự nhiên và các khoa học kỹ thuật hay không? Nếu không cần thì liệu có nhất thiết phải loại bỏ triết học ra khỏi chương trình giảng dạy ở các trường đại học hay không?
Quan điểm này đã được thể hiện ở việc thay thế môn thi đầu vào nghiên cứu sinh là triết học bằng môn lịch sử khoa học và triết học về khoa học. Chủ trương này cũng đã được trình bày trong bài viết của I.Komarov đăng trên Báo “Poisk”, số 1 và 2 năm 2006 và trong bài viết của V.Utraikin cũng đăng trên Báo “Poisk”, số 47 năm 2006. Đương nhiên, tâm trạng được thể hiện trong các bài viết này cũng là tâm trạng phổ biến ở các nhà khoa học và giảng viên các bộ môn khoa học tự nhiên. Có thể trình bày thực chất của quan điểm này thông qua một số luận điểm mà thoạt nhìn, có vẻ như là xác đáng ở một chừng mực nhất định.
Nhiệm vụ của các trường đại học là phải đào tạo ra những chuyên gia lành nghề trong một lĩnh vực hoạt động nào đó – kỹ sư xây dựng, bác sĩ, luật sư, nhà hóa học, nhà toán học, v.v.. Đó cũng là chức năng chủ yếu của bất kỳ trường đại học nào. Hàng năm, nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải có một số lượng chuyên gia nhất định để thay thế cho những người nghỉ việc vì những lý do nào đó. Chỉ sau vài năm, những chỗ làm bỏ trống đó không được bổ sung thì đời sống xã hội sẽ bị tê liệt: những công xưởng, các nhà máy điện ngừng hoạt động, các bệnh viện không còn khả năng tiếp nhận bệnh nhân, các trường học đóng cửa do thiếu giáo viên, v.v.. Do vậy, xã hội và nhà nước luôn cần đến một hệ thống đào tạo chuyên gia – hệ thống giáo dục đại học. Và cũng chính vì vậy mà nhà nước cần phải cấp ngân sách cho việc đào tạo những chuyên gia mới.
Thế nhưng, nếu mục đích chủ yếu của các trường đại học là đào tạo ra các chuyên gia tương lai trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể, thì chương trình học tập lại cần phải đáp ứng chính mục đích ấy. Tất cả những gì không trực tiếp định hướng vào việc đào tạo chuyên gia tương lai đều phải loại ra khỏi chương trình học tập. Trong thời đại hiện nay, chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào cũng đòi hỏi phải có tri thức chuyên ngành sâu sắc. Mọi nỗ lực của sinh viên đều phải được định hướng vào việc tiếp thu tri thức ấy. Sinh viên không còn thời gian để làm bất kỳ việc gì nữa. Chương trình học tập không những đã quá tải, mà hàng năm, lượng kiến thức cần thiết cho một chuyên gia tương lai lại còn tăng lên nữa. Do vậy, một điều hoàn toàn hiển nhiên là cần phải giải phóng chương trình học tập khỏi tất cả những gì không cần thiết cho việc làm chủ nghề nghiệp tương lai.
Xu hướng giảm thiểu lượng thời gian dành cho các bộ môn khoa học nhân văn, như triết học, sử học, đạo đức học, thẩm mỹ học, v.v. ở các trường thuộc khối khoa học tự nhiên là dựa trên luận cứ này. V.Utraikin đã khẳng định rằng, “Cần phải ĐƯA TẤT CẢ NHỮNG THỨ ĐÓ RA KHỎI DANH MỤC NHỮNG CHUẨN TẮC NGHỀ NGHIỆP đối với ... các nhà toán học, các nhà vật lý học, v.v.. Đồng thời, phải đưa vào chương trình đào tạo tất cả những môn học mà chuyên gia thực thụ không thể thiếu chúng. Việc cắt giảm ngân sách chi cho các bộ môn khoa học nhân văn ấy là cần thiết. Hãy để cho sinh viên nào, nghiên cứu sinh nào muốn nhận được học vấn về triết học, sử học, đạo đức học và thẩm mỹ học phải tự mình trả kinh phí cho chúng như cho một học vấn bổ sung. Không nên bắt buộc họ phải học các môn học ấy thông qua quy định, thi cử, thi đầu vào, thi tối thiểu”.
Có thể nói, cái nhìn không mấy thiện cảm của một số nhà khoa học thuộc các ngành khoa học chính xác đối với các bộ môn nhân văn vốn đã có lịch sử từ xa xưa. Không muốn đi sâu vào quá khứ, trong bài viết này, tôi chỉ muốn nhắc lại những cuộc tranh luận giữa các “nhà vật lý học” và các “nhà khoa học nhân văn” vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Khi đó, dường như là các “nhà vật lý học” và các “nhà khoa học nhân văn” đã đạt được một sự đồng thuận nhất định. Song, cuộc tranh luận giữa họ, một lần nữa, lại bùng nổ. Thêm vào đó, đối tượng tấn công lần này của các “nhà vật lý học” lại chính là triết học. Tại sao lại như vậy? Tại sao lại không phải là các bộ môn báo chí, giáo dục thể chất hay tâm lý học? Phải chăng, vì những người đang đứng đầu các khoa chuyên ngành khoa học tự nhiên hay các chuyên gia đang làm công tác quản lý tại Bộ Giáo dục - Đào tạo đã từng nghe các bài giảng về triết học mácxít tại các trường đại học vào những năm 50 - 60 và họ ngộ nhận dường như mình đã biết triết học là gì và do vậy, có thể phán quyết về việc các cử nhân thời nay có cần hay không cần biết triết học. Chúng ta vốn đã quen có thái độ tôn trọng đối với ý kiến của các nhà khoa học và thói quen này, cho tới nay, vẫn có một cơ sở nghiêm túc. Sau khi đã cống hiến sức lao động của mình cho những hoạt động trong một lĩnh vực khoa học hay kỹ thuật nào đó, sau khi đã bỏ ra không ít nỗ lực để nắm bắt hệ thống các khái niệm, phương pháp và nguyên lý của lĩnh vực khoa học ấy, người ta thường rất thận trọng đối với việc đưa ra ý kiến về những vấn đề nằm ngoài thẩm quyền nghề nghiệp của mình; họ ý thức rất rõ rằng cần phải biết và hiểu nhiều để có thể đưa ra một phán quyết có luận cứ trong bất kỳ một lĩnh vực chuyên ngành nào. Thật kỳ lạ là trong bài viết của V.Utraikin, tiến sĩ khoa học toán lý, chủ nhiệm bộ môn vật lý lý thuyết lại không có thái độ thận trọng tối thiểu đối với bất kỳ một người có học vấn nào; ngược lại, toàn bộ bài viết của ông ta lại cho thấy một thái độ tự tin đến mức thái quá của một “chuyên gia” được kết hợp với sự ngu dốt đến mức không còn gì để nói đối với lĩnh vực mà ông ta quyết định đưa ra lời phán quyết.
Nhiều địch thủ hiện nay của triết học đang có ý định đồng nhất triết học với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vì họ chưa từng nghe nói đến các trường phái và các trào lưu triết học khác. Với tư cách khoa học triết học chính thống, chủ nghĩa Mác đã bị gạt bỏ như một học thuyết triết học cổ hủ và bị chính trị hóa một cách thái quá, và do vậy, theo họ, cần phải loại bỏ triết học ra khỏi chương trình giảng dạy tại các trường đại học.
Hơn nữa, những người theo quan điểm này còn cho rằng, ở thời kỳ Xô viết, phương pháp biện chứng đã từng được tuyên bố là phương pháp nhận thức phổ biến, là phương pháp chỉ đạo hoạt động nói chung. Với tuyên bố đó, người ta đã gán ghép phương pháp này cho khoa học và cho nhiều lĩnh vực hoạt động vật chất và tinh thần khác. Vậy, nhà khoa học có thể rút ra được điều gì từ những luận điểm cho rằng, điện tử cũng vô cùng vô tận như nguyên tử, hay đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển? Không có gì cả! Triết học đã được sử dụng với tư cách sự giám sát về mặt tư tưởng hệ đối với các nhà khoa học, các chuyên gia và được nhồi nhét vào đầu óc họ nhằm mục đích tuyên truyền cho hệ tư tưởng cộng sản. Giờ đây, điều đó không còn cần thiết nữa và do vậy, triết học trở thành bộ môn không nhất thiết phải đưa vào chương trình giảng dạy tại các trường đại học.
Thế nhưng, nếu xem xét triết học hiện đại ở nước ngoài, thì đối với các chuyên gia trẻ tuổi, họ có thể tìm thấy cái gì ở trong đó? Chúng ta đã từng biết đến những câu chuyện về bộ não của con bướm hay con dơi quan niệm thế giới là gì, nghĩa của từ “trò chơi” là gì, có hay không có chòm sao Phi mã (Pegasus), v.v.. Những câu chuyện ấy giống với những suy tư của các nhà triết học Trung cổ về việc có bao nhiêu thiên thần có thể đứng ở đầu một cái kim. Những câu chuyện này không để lại một dấu ấn nào trong ký ức của sinh viên và bị lãng quên ngay sau khi họ đã trả thi môn triết học. Dường như, những suy tư kiểu như vậy chỉ có ý nghĩa đối với các nhà triết học, và nếu quả là như thế thì hãy để cho chúng tồn tại chỉ trong khuôn khổ của triết học, không việc gì phải gán ghép chúng cho các khoa học chuyên ngành khác.
Chính vì vậy, những người theo quan điểm này đã khẳng định rằng, triết học không những là vô bổ đối với các kỹ sư, các nhà khoa học tự nhiên, mà còn là tai hại đối với họ. Rằng, các nhà triết học đã nói ra biết bao nhiêu điều ngu xuẩn về khoa học và về nhận thức khoa học! Lúc đương thời, các nhà triết học Xô viết đã bác bỏ thuyết tương đối, đã phỉ báng di truyền học và điều khiển học, đã gán ghép cho phép biện chứng chức năng là phương pháp nhận thức phổ biến. Và, cho tới nay, các nhà triết học vẫn đang ra sức tước bỏ niềm tin của các nhà khoa học vào tính chân thực hay tính hữu ích của các kết quả mà họ đã nhận được; vẫn đang bàn luận về tính quy định nào đó về mặt văn hóa của bức tranh thế giới; vẫn đang so sánh các lý thuyết khoa học với những câu chuyện thần thoại; vẫn đang nói về vai trò lịch sử văn hóa của tôn giáo, v.v.. Các kỹ sư, các nhà khoa học trẻ không cần đến tất cả những điều đó!
Môn thi đầu vào - triết học đã bị loại bỏ đối với nghiên cứu sinh. Người ta đã hành động đúng! Giờ đây, cần phải giải thoát cho sinh viên khỏi sự bắt buộc phải học, phải đọc những câu chuyện ba hoa vô bổ và thậm chí là tai hại này. Xét đến cùng, việc giảng dạy triết học tại các trường đại học chỉ là cần thiết cho bản thân các nhà triết học, bởi họ chỉ có thể kiếm sống bằng công việc giảng dạy và do vậy, họ kiên định với quan điểm đưa triết học vào chương trình giảng dạy của tất cả các trường đại học một cách không phụ thuộc vào chuyên ngành đào tạo của chúng.
Những suy nghĩ như vậy ngày càng được phổ biến một cách rộng rãi hơn. Các phương tiện truyền thông đại chúng và các quan chức ngành giáo dục – đào tạo luôn bày tỏ thái độ đồng tình với những suy nghĩ ấy. Đương nhiên, Ban biên tập Báo “Poisk” của Liên hiệp các hội khoa học cũng tán thành với những suy nghĩ ấy. Nhưng, nếu xem xét một cách kỹ lưỡng những suy nghĩ ấy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, tất cả những suy nghĩ này không hơn gì một sự pha trộn giữa chính sách mị dân và sự ngu dốt đã được che đậy.
Chúng ta hãy xem xét luận điểm cho rằng, triết học là không cần thiết và thậm chí còn là tai hại đối với nhà khoa học. Nếu quả là như vậy thì phải chăng, những người tuyên truyền cho luận điểm này đã không biết rằng, triết học và khoa học chỉ mới tách ra khỏi nhau ở hai thế kỷ gần đây, còn trước đó, nhiều nhà khoa học đồng thời cũng là các nhà triết học, còn các nhà triết học cũng có những khám phá khoa học. Trong sự nghiệp sáng tạo của Descartes và Leibniz, của Mach và Poincare, của Russel và Bor, khoa học và triết học đã đan xen vào nhau một cách chặt chẽ tới mức chắc gì là có thể tách chúng ra được. Tác phẩm quan trọng nhất của Newton có tên gọi là “Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên”; còn ở Trường Đại học Tổng hợp Viên, người ta đã thành lập tổ bộ môn Triết học tự nhiên dành cho nhà vật lý học Mach. Bản thân Mach đã làm chủ nhiệm bộ môn này, còn sau ông là nhà vật lý học nổi tiếng không kém – L.Bolsman. Một trong những hội nghị cuối cùng được tổ chức vào năm 1936, khi mà người ta thấy khó có thể họp tại Đức hay Áo, các nhà thực chứng lôgíc đã tập hợp tại ngôi nhà của Bor ở Đan Mạch. Bor đã nhiệt liệt chào đón các nhà triết học đến dự buổi khai mạc hội nghị. Tại đó, các nhà khoa học đã khẳng định, khoa học đích thực bao giờ cũng gắn liền với triết học, đó là còn chưa nói tới việc xây dựng nhiều tư tưởng và lý thuyết khoa học đã được triết học gợi mở. Triết học đem lại cho các chuyên gia trẻ tuổi quan niệm chung về thế giới xung quanh và về bản chất của nhận thức. Triết học còn nói với họ về mục đích của hoạt động nhận thức và về giá trị xã hội của khoa học, giúp họ ý thức được địa vị của bộ môn khoa học của mình trong hệ thống các khoa học. Không chỉ thế, triết học còn truyền dạy cho họ thái độ khoan dung đối với ý kiến của người khác và thái độ phê phán đối với quan điểm của bản thân mình. Và, nếu muốn nói thêm nữa, còn có thể nhất trí rằng, triết học dẫu có cho là không cần cho việc giải quyết những vấn đề kỹ thuật hay ứng dụng khoa học chuyên ngành, song với những nhà khoa học có suy tư về những vấn đề mang tính chất nền tảng trong lĩnh vực khoa học của mình thì như lịch sử khoa học đã cho thấy, triết học đã gợi mở, kích thích mạnh mẽ đối với sáng tạo khoa học. Còn nếu nói về các lĩnh vực khoa học hiện đại, như thiên văn học, vũ trụ học, thuyết tiến hóa sinh học, di truyền học, thì việc giải quyết những vấn đề khoa học ở đây lại thường đi liền với các quan điểm triết học.
Đối với triết học mácxít và quan hệ của nó với khoa học ở thời kỳ Xô viết, chúng ta có thể nói, đây là một đề tài lớn và phức tạp, cần được khảo cứu chuyên sâu. Gần đây, những người nhạo báng quá khứ thời Xô viết của nước ta, muốn bôi nhọ nó vẫn đang ra sức nhấn mạnh chức năng tư tưởng hệ của triết học mácxít và mô tả nó dưới dạng một kẻ giám sát về mặt tư tưởng hệ đối với khoa học và các nhà khoa học. Không thừa nhận di truyền học! Thủ tiêu điều khiển học! Nhưng chỉ cần suy nghĩ chút ít rằng, chính vào thời kỳ Xô viết, khoa học Liên Xô đã đạt được những thành tựu vĩ đại trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học; rằng chính ở thời kỳ này, các nhà khoa học kiệt xuất, như I.P.Pavlov, V.I.Vernadsky, P.L.Kapisa, S.I.Vavilov, L.L.Landau, A.N.Côlmôgôrov, S.P.Côlôrev, I.V.Carchatov, v.v. đã sống và làm việc tại Liên Xô. Do vậy, sự giám sát về mặt tư tưởng hệ mà hiện nay, người ta đang gào thét về tính chất khắc nghiệt của nó, đã không có sự hạn chế đáng kể nào đối với sự nghiệp sáng tạo của nhà khoa học. Thêm vào đó, cần phải nhắc nhở những kẻ luôn mạt sát triết học rằng, chính những con người cụ thể đã hoàn thành chức năng tư tưởng hệ của triết học mácxít, họ thích làm và có nhiệm vụ thực thi công việc đó, còn các nhà triết học – các nhà mácxít đích thực đã không làm công việc như vậy. Chỉ cần đọc các tác phẩm của M.E.Omêlianovsky, V.S.Gott, V.F.Asmus, S.T.Melyukhlin, E.V.Ilenkov, Yu.B.Môltranov, D.P.Gorsky, S.S.Averiốtev, đó là còn chưa nói đến A.F.Lôsev và M.M.Bakhtin, cũng đủ để hiểu rằng, những con người ấy tiến hành nghiên cứu những vấn đề triết học nghiêm túc, chứ không phải là làm công việc “vận dụng” chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào các khoa học tự nhiên và các khoa học xã hội. Và, giờ đây cũng khó có thể buộc tội các nhà triết học nổi tiếng của chúng ta, như T.I.Oizerman, V.S.Schvưrov, V.A.Lektorsky, V.S.Stepin, N.V.Môtôshilova, E.A.Mamtrur, P.P.Gaydenko (và hàng chục tên tuổi lớn khác) về việc gán ghép hệ tư tưởng phản khoa học nào đó cho các nhà khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã (và đang) thể hiện là một trong các khuynh hướng của triết học khoa học – theo nghĩa là nó định hướng vào khoa học và cố gắng xem xét những kết quả của khoa học từ lập trường thế giới quan, từ vị thế đối lập với tôn giáo và triết học tôn giáo, với các khuynh hướng triết học có ý đồ bác bỏ hay bỏ qua những thành quả của khoa học. Đây là một hệ thống triết học được nghiên cứu kỹ lưỡng, cân đối và nhất quán, sâu sắc và táo bạo không kém gì các hệ thống triết học của Kant và Hegel, của chủ nghĩa thực chứng, v.v.. Hạn chế hiện thực (nói chính xác hơn là “bi kịch”) của triết học mácxít là ở chỗ, nó trở thành triết học của nhà nước (quan phương) và giữ địa vị độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu triết học. Hạn chế hiện thực đó đã đem lại tai hại lớn nhất cho chính bản thân triết học.
Những kẻ đang rên rỉ một cách giả nhân giả nghĩa về sự chuyên chế tư tưởng của triết học mácxít đối với các nhà khoa học cần phải biết rằng, triết học Xô viết đã từng trải qua những trở ngại còn lớn hơn nhiều so với khoa học. Bởi lẽ: thứ nhất, rất nhiều nhà triết học Nga đã buộc phải rời bỏ đất nước và không thể tham gia vào đời sống triết học của nước Nga. Triết học tôn giáo mà, trước Cách mạng Tháng Mười chiếm ưu thế tuyệt đối ở Nga trong lĩnh vực nghiên cứu triết học, chủ yếu đã bị thủ tiêu. Thứ hai, chính triết học đã bị thiệt hại nhiều nhất do có sự kiểm duyệt về mặt tư tưởng hệ và do vậy, các nhà triết học nghiêm túc thường phải tiến hành công việc nghiên cứu trong lĩnh vực nhận thức luận, lịch sử triết học, lôgíc học, những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên. Và, giờ đây, khi mà triết học Nga được phục hồi, được giải phóng khỏi những hạn chế về tư tưởng hệ, khi mà triết học tôn giáo được khôi phục, khi mà các nhà tư tưởng nghiêm túc hướng vào lĩnh vực những vấn đề triết học xã hội, thì dựa vào những ký ức về các bài giảng về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vốn đã bị cắt xén, một số người ít hiểu biết lại lên tiếng đòi phải loại triết học ra khỏi chương trình giảng dạy tại các trường đại học!
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét luận điểm thứ hai của các nhà khoa học chuyên ngành. Họ nói rằng, vì nhà nước cần có các chuyên gia làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nên nhà nước chỉ cần phải trả tiền cho việc giảng dạy các môn học chuyên ngành. Tất cả những cái gì không có quan hệ trực tiếp với việc đào tạo chuyên gia đều phải bị xoá sổ. Luận điểm này thoạt nghe thì có vẻ có lý, nhưng chỉ là hợp lý trong trường hợp quên rằng, nhà nước không chỉ cần đến những chuyên gia mà còn cần đến những công dân – những công dân có trách nhiệm, có ý thức tuân thủ pháp luật, không thờ ơ đối với vận mệnh của nhà nước và của đất nước, có năng lực ý thức được rằng đôi khi lợi ích cá nhân cần phải phục tùng lợi ích của nhà nước và của xã hội. Việc làm chủ một chuyên ngành nào đó chưa làm cho con người trở thành công dân. Để giáo dục ý thức công dân thì người ta luôn phải cần đến các lĩnh vực văn hóa nhân văn mà hiện đang bị một số người đề nghị loại ra khỏi chương trình giảng dạy tại các trường đại học. Lịch sử đất nước luôn đem lại cho con người ý thức về nguồn gốc của mình là một cộng đồng dân tộc có chủ quyền, về vị trí của thế hệ mình trong dãy những thế hệ thay thế lẫn nhau, hiểu được tính đặc thù và độc đáo của thời đại. Triết học bao giờ cũng đem lại cho con người quan niệm đúng đắn về các mối quan hệ xã hội, về bản chất và các chức năng của nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ qua lại giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm.
Đương nhiên, tính chuyên nghiệp là cái mà hiện nay, đang được đánh giá cao. Vậy thì vì lẽ nào mà xã hội, xét đến cùng, lại cần đến các bác sĩ, các luật sư không hề hiểu biết gì về những chuẩn tắc đạo đức tối thiểu? Và, vì lẽ nào mà chúng ta lại cần đến các nhà sinh học thờ ơ đối với đối tượng thí nghiệm – con chuột hay con người? Lẽ nào chúng ta lại phải nhờ đến các nhà khoa học, các kỹ sư có thái độ sẵn sàng như nhau trong việc xây dựng nhà máy điện nguyên tử cũng như trong việc chế tạo bom nguyên tử hay sản xuất thuốc nổ cho bọn khủng bố? Liệu những chuyên gia như vậy có trở thành những công dân xứng đáng và có trách nhiệm với đất nước mình hay không? Đã chắc gì như vậy. Việc đặt hy vọng vào “tính chuyên nghiệp” sẽ đưa tới chỗ là, nếu đi theo con đường này thì xã hội ta chẳng bao lâu sẽ bị biến thành một tổng thể những chuyên gia ích kỷ, sẵn sàng làm mọi thứ chỉ vì cái lợi của bản thân. Xét đến cùng, ăn cắp cũng là một nghề!
Chỉ quan tâm đến việc đào tạo các chuyên gia chứ không phải là những công dân, nhà nước sẽ sụp đổ ngay khi phải đối mặt với thử thách đầu tiên và nói chung, nhà nước đó chắc gì đã có thể tồn tại. Tổ tiên chúng ta vốn không phải là các chuyên gia giỏi, khi mà thế hệ trước chúng ta, vào năm 1941, đã buộc phải chống lại sự tấn công của quân đội phát xít mạnh nhất thế giới thời ấy. Những người nông dân chưa từng nhìn thấy máy kéo đã phải chiến đấu chống lại những người lính thiện chiến, được trang bị quân dụng hiện đại nhất. Mặc dù thế, nhưng cuối cùng, những người nông dân đó đã học được cách chiến đấu, đã làm chủ được kỹ thuật quân sự và đánh bại các “chuyên gia” Đức. Chiến thắng đó chỉ có được nhờ cha ông chúng ta là những công dân đích thực của Tổ quốc mình và họ đã đặt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc lên trên lợi ích bản thân, thậm chí lên trên cả mạng sống của bản thân mình. Các chuyên gia mà những nhà cải cách đang rất chăm lo đến việc đào tạo sẽ bỏ ra nước ngoài ngay khi có tiếng súng đầu tiên nơi biên thuỳ hay trở thành tay sai cho một chính quyền nước ngoài. Với họ, ở đâu trả lương cao thì đó là Tổ quốc! Những thời điểm quan trọng trong đời sống của các dân tộc và các quốc gia đều cho thấy nhà nước luôn và trước hết cần đến những công dân có khả năng cố kết cộng đồng để chiến thắng những mối đe doạ, những hiểm hoạ chung.
Nhà nước luôn cần đến các công dân và cũng luôn cần đến các chuyên gia lành nghề cho các lĩnh vực kinh tế quốc dân khác nhau. Hệ thống giáo dục đại học của chúng ta đã và đang tồn tại, bất chấp cả những cải cách tai hại trong những năm gần đây và nó đã đáp ứng được cả hai nhu cầu xã hội ấy ở một chừng mực nhất định. Quy giáo dục đại học chỉ về việc đào tạo nghề nghiệp có nghĩa là thủ tiêu một trong các chức năng cơ bản của nó. Điều này sẽ để lại những hậu quả khôn lường cho đất nước. Đúng, chúng ta sẽ đào tạo ra những chuyên gia, nhưng đào tạo cho ai? Cho kẻ trả nhiều tiền hơn, tức là cho nước ngoài, vì trên thế giới, bao giờ cũng có những nước toan tính được việc mua chuyên gia sẽ rẻ hơn nhiều so với đào tạo tại chỗ.
Cuối cùng, ở đây còn có một yếu tố quan trọng nữa. Khi chúng ta nói về giáo dục đại học, về việc cải cách hay duy trì nó, thì chúng ta dường như bao giờ cũng hướng về những người trẻ tuổi, đến đội ngũ sinh viên từ quan điểm của nhà nước và của xã hội. Chúng ta sẽ đào tạo những lớp người trẻ tuổi ấy thành ai – công dân? chuyên gia? công dân và chuyên gia? Hay không phải cả hai? Song, cũng có thể nhìn nhận giáo dục đại học và cấu trúc của nó từ quan điểm của lớp trẻ: tôi có thể nhận được cái gì trong quá trình học tập ở đại học? Tiếc thay, công tác tuyên truyền và quảng bá hiện nay đã nhồi nhét vào đầu thế hệ trẻ một khuôn mẫu cho rằng, học đại học chỉ nhằm một mục đích thực dụng – nhận được ngành nghề (nghiệp) cho phép kiếm được nhiều tiền. Mục đích này, trong điều kiện hiện nay, đúng là một mục đích quan trọng. Nhưng đó không phải là mục đích duy nhất và có thể, cũng không phải là mục đích quan trọng nhất! Các trường đại học bao giờ cũng đem lại học vấn theo nghĩa rộng của từ này; chúng đào tạo ra những con người được khai sáng. Người có học khác với “kẻ ngu dốt bác học” (kẻ ít học nhưng lại muốn tỏ ra là có học) ở chỗ, ngoài các tri thức chuyên ngành, người có học còn tự bổ sung cho mình những lĩnh vực nào đó của văn hóa thế giới – văn học, sử học, nghệ thuật, triết học. Trở thành một người có học - đó chính là mục đích quan trọng hơn việc nhận được một nghề nào đó. Mặc dù lớp trẻ không phải bao giờ cũng hình dung rõ mục đích này, song nó luôn hiện diện trong ý thức của mỗi sinh viên và bản thân họ cũng luôn chờ đợi ở trường đại học một điều gì đó quan trọng hơn là nhận được một nghề.
Đương nhiên, có những con người trẻ tuổi rất đam mê một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nào đó và không muốn hao tốn sức lực và thời gian cho một cái gì khác. Quan niệm này không phải là mới và việc lên án những cô cậu sinh viên bảo vệ nó là không nên. Các nhà cải cách giáo dục đã dựa vào chính một nhóm ít ỏi những sinh viên như vậy để yêu cầu loại bỏ các bộ môn khoa học nhân văn ra khỏi các trường đại học. Phải nói rằng, những người trẻ tuổi ấy rất đáng được thương hại, nhưng họ sẽ dần dần nhận ra được sự thật. Họ sẽ hiểu được rằng, cuộc sống của con người không chỉ quy về việc hoàn thành các chức năng nghề nghiệp. Khi kích thích tâm trạng tự sát của họ, những kẻ truyền bá tính chuyên nghiệp trần trụi chỉ đáng được coi hoặc là ngu dốt đến mức không còn gì để nói, hoặc chỉ biết hoàn thành một cái đơn đặt hàng xã hội, có thể nói, là tệ hại.
Lẽ nào con người ta sinh ra chỉ để hoàn thành các chức năng xã hội nào đó – lái xe hay bác sĩ, thợ mỏ hay giáo viên, nhà quản lý hay kỹ sư thăm dò? Đương nhiên, nhà nước và xã hội sẽ chỉ cần đến người ấy để thay thế một chi tiết nào đó trong cỗ máy kinh tế bị hư hỏng. Nhưng, điều đó liệu có phải là đã đủ đối với mỗi con người hay không? Không, mọi người đều muốn sống một cuộc sống phong phú, có đầy rẫy công việc và sự kiện, đều muốn hiện thực hóa những năng lực bẩm sinh của mình, hưởng thụ vẻ đẹp của thế giới và nghệ thuật. Nền văn minh hiện đại đã đem lại những khả năng chưa từng thấy để đáp ứng nhu cầu đó. Nhưng, cần phải đạt tới một trình độ phát triển tinh thần nhất định thì người ta mới có thể sử dụng được những khả năng ấy. Triết học chính là cái đặt cơ sở cho sự phát triển như vậy tại các trường đại học và cũng chính triết học buộc con người phải suy ngẫm về mục đích và những giá trị của cuộc sống. Chính triết học đã phác hoạ cho con người những nét cơ bản của thế giới văn hóa (lịch sử, văn học và nghệ thuật). Chính triết học đã nói với con người rằng, cái Thiện và cái Đẹp quan trọng không kém gì cái Chân trong cuộc đời. Nếu các môn học chuyên ngành biến sinh viên thành chuyên gia, thì triết học và các bộ môn khoa học nhân văn khác lại giúp hình thành nên nhân cách của sinh viên giúp họ trở thành người sáng tạo ra cuộc sống của mình một cách có suy nghĩ và có trách nhiệm, thành công dân của đất nước mình. Không tiếp cận với triết học và văn hóa nhân văn, con người không hơn gì người máy chỉ biết hành động theo chương trình do ai đó cài sẵn trong nó và ngoan ngoãn phục tùng những chỉ dẫn theo quảng cáo và các phương tiện truyền thông đại chúng.
Định hướng vào sự chuyên nghiệp hóa giáo dục đại học là xu hướng đã tồn tại từ lâu ở Mỹ và Tây Âu – xu hướng biến phần lớn dân cư thành “những con người một chiều” (Marcuse), thành “con người đại chúng” (Ortega i Gasset), thành những người mà ý thức của họ, rất dễ bị điều khiển. Rốt cuộc, đó là xu hướng xác lập nhà nước cực quyền toàn diện. Hiện đang có nhiều nhà chính luận, nhiều nhà báo liệt kê Nhà nước Xô viết vào loại một nhà nước cực quyền, thực hiện sự giám sát toàn diện đối với lối ứng xử của con người, thể chế hóa lao động, nhu cầu, giải trí của họ, đàn áp mọi biểu hiện của quan điểm khác, v.v.. Tuy nhiên, Nhà nước Xô viết đã không giám sát suy nghĩ của con người, con người vẫn được tự do trong lĩnh vực ý thức. Hiện nay, công nghệ tẩy rửa não, tuyên truyền, quảng cáo, các phương tiện truyền thông đại chúng đều có khả năng khống chế hoàn toàn ý thức của con người, gán ghép cho nó mọi mục đích và giá trị, thức tỉnh mọi tình cảm và thái độ, hình thành sở thích, thị hiếu, v.v.. Như vậy, không những hành vi mà cả ý thức của con người trong xã hội hiện đại đều do nhà nước hay giới cầm quyền giám sát. Lịch sử loài người chưa từng biết đến sự giám sát toàn diện như vậy. Việc xua đuổi triết học ra khỏi các trường đại học sẽ tạo ra một bước tiến quan trọng trên con đường dẫn tới sự nô dịch tinh thần con người.
Giới sinh viên, ngay từ thời Trung cổ, đã là một trong các nhóm xã hội tích cực nhất. Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị. Tước bỏ triết học và các bộ môn văn hóa nhân văn của sinh viên cũng có nghĩa là làm suy yếu hay thủ tiêu hoàn toàn tính tích cực xã hội của nhóm dân cư năng động nhất này. Phải chăng, đó chính là mục đích của những kẻ phản đối triết học, sử học, đạo đức học, v.v.?./.
ĐỖ MINH HỢP dịch
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 1 (200) năm 2008